Hội nghị “Sơ kết, đánh giá tình hình triển khai Đề án phát triển công nghiệp sinh học ngành nông nghiệp giai đoạn 2021-2025, định hướng 2026-2030” do Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức đã khẳng định vai trò của công nghệ sinh học như một động lực mới cho tái cơ cấu nông nghiệp. Các chuyên gia, nhà khoa học và doanh nghiệp cùng thống nhất rằng chuyển đổi từ nghiên cứu sang ứng dụng và thương mại hóa là hướng đi tất yếu.
Bước chuyển mình chiến lược của ngành nông nghiệp
Chiều ngày 5/11/2025 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội nghị “Sơ kết, đánh giá tình hình triển khai Đề án phát triển công nghiệp sinh học ngành nông nghiệp giai đoạn 2021- 2025, định hướng 2026 - 2030”, dưới sự chủ trì của Thứ trưởng Phùng Đức Tiến. Hội nghị quy tụ đại diện các Bộ/ngành, Viện nghiên cứu, trường Đại học, Doanh nghiệp, Hiệp hội và đại diện một số tổ chức quốc tế (FAO, JICA, ACIAR…).
Trong phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển các giống cây trồng và vật nuôi có năng suất, chất lượng cao và khả năng kháng bệnh vượt trội, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của công nghiệp sinh học nông nghiệp trong giai đoạn tới.
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho rằng, Việt Nam cần tận dụng tối đa thành tựu khoa học công nghệ của thế giới, kết hợp tri thức bản địa với công nghệ hiện đại, để hình thành những ngành hàng nông nghiệp quy mô lớn, có sức cạnh tranh khu vực và quốc tế.
“Nếu biết khai thác đúng hướng, những nguồn gen quý trong nước hoàn toàn có thể trở thành nền tảng cho các ngành sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô công nghiệp”, Thứ trưởng khẳng định.
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, khoa học và công nghệ phải trở thành động lực chính của tái cơ cấu ngành nông nghiệp, đồng thời chỉ rõ: “Không thể để việc nghiệm thu xong rồi đút vào ngăn kéo, đặc biệt là công nghệ sinh học. Mỗi đồng vốn đầu tư nghiên cứu phải tạo ra giá trị thực”.
Theo Thứ trưởng, Bộ đang định hướng đầu tư 25.000 tỷ đồng cho nghiên cứu khoa học, huy động hơn 1.200 nhà khoa học của toàn Ngành, nhằm biến công nghiệp sinh học thành một ngành hàng có giá trị cao và khả năng xuất khẩu mạnh mẽ.
Đánh giá 5 năm thực hiện Đề án - Nền tảng cho giai đoạn mới
Tại Hội nghị, ông Nguyễn Hữu Ninh, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ, trình bày Báo cáo sơ kết, báo cáo đã chỉ rõ: Giai đoạn 2021-2025 đánh dấu bước khởi đầu quan trọng của Đề án phát triển công nghiệp sinh học ngành nông nghiệp. Trong bối cảnh kinh tế - xã hội chịu ảnh hưởng bởi đại dịch và biến động thị trường toàn cầu, ngành nông nghiệp Việt Nam vẫn kiên trì đầu tư cho khoa học công nghệ, từng bước hình thành hạ tầng nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học hiện đại, tạo tiền đề cho giai đoạn 2026-2030.
Trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021-2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã triển khai dự án “Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phát triển ứng dụng công nghệ sinh học nông nghiệp” với tổng mức đầu tư 203 tỷ đồng. Dự án được cấu phần cho Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II, Viện Nghiên cứu Ngô và Phòng thí nghiệm trọng điểm công nghệ tế bào động vật (Viện Chăn nuôi).
Tuy nhiên, do vướng mắc về quy hoạch và thủ tục, hạng mục Trung tâm Công nghệ sinh học thủy sản - Viện NTTS II chưa thể triển khai đúng tiến độ, được điều chỉnh theo Quyết định số 3240/QĐ-BNN-KH ngày 21/7/2021 và 5155/QĐ-BNN-KH ngày 30/12/2022. Dù vậy, các thành phần còn lại của dự án vẫn được duy trì và mở rộng, khẳng định quyết tâm không để gián đoạn chuỗi đầu tư cho nghiên cứu sinh học.
Bước sang năm 2024, Bộ tiếp tục củng cố năng lực nghiên cứu bằng các quyết định trọng điểm: Quyết định số 3328/QĐ-BNN-KHCN ngày 02/10/2024 về tăng cường trang thiết bị cho Phòng thí nghiệm công nghệ tế bào động vật (Viện Chăn nuôi), và Quyết định số 5090/QĐ-BNN-KHCN ngày 31/12/2024 phê duyệt đầu tư phòng thí nghiệm công nghệ gen tại Viện Nghiên cứu Ngô.
Các hoạt động này tạo nền móng vững chắc cho giai đoạn 2026-2030, khi Bộ đã ban hành Quyết định số 4195/QĐ-BNNMT ngày 10/10/2025 phê duyệt dự án kế tiếp “Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phát triển ứng dụng CNSH nông nghiệp giai đoạn 2026-2030” với tổng mức đầu tư 215 tỷ đồng. Hai Viện chủ lực được ưu tiên là Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II và Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, tập trung cho xây dựng khối nhà thí nghiệm trung tâm, nhà chọn tạo giống, nhà kính - nhà lưới an toàn sinh học, hạ tầng kỹ thuật và hệ thống thiết bị đồng bộ đạt chuẩn ASEAN.
Cũng theo báo cáo của Vụ Khoa học và Công nghệ, sau 5 năm, Đề án đã hình thành mạng lưới 30 Viện và Trung tâm nghiên cứu thuộc Bộ và các đơn vị liên kết, trong đó có 04 phòng thí nghiệm công nghệ sinh học trọng điểm theo chuyên ngành: Công nghệ sinh học cây trồng; Công nghệ sinh học chăn nuôi - thú y; Công nghệ sinh học thủy sản; Công nghệ enzyme - vi sinh vật.
Song song, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đặt mục tiêu đến năm 2030 tăng cường thiết bị cho ít nhất 10 phòng thí nghiệm vùng, và khuyến khích nguồn vốn ngoài ngân sách để hình thành phòng thí nghiệm kiểm định chất lượng, đánh giá an toàn sinh học và tiêu chuẩn hóa sản phẩm sinh học tại doanh nghiệp. Hướng đi này nhằm tạo liên kết bền vững giữa nghiên cứu - sản xuất - thương mại hóa, thay vì nghiên cứu rời rạc như trước đây .
Báo cáo sơ kết của Phó Vụ trưởng Nguyễn Hữu Ninh nêu rõ, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số nội dung trọng điểm chưa triển khai, như: Trang bị đủ thiết bị cho ≥10 phòng thí nghiệm theo vùng; Hỗ trợ doanh nghiệp nhập khẩu công nghệ và dây chuyền mới; Hoàn thiện kế hoạch đào tạo nhân lực, bao gồm gửi cán bộ đi học sau đại học ở nước ngoài bằng ngân sách Đề án, đào tạo ngắn hạn, kỹ thuật viên, và tập huấn chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp, địa phương .
Báo cáo cũng chỉ ra rằng, liên kết giữa nghiên cứu và doanh nghiệp vẫn là khâu yếu nhất. Nhiều kết quả nghiên cứu mới dừng ở quy mô phòng thí nghiệm hoặc mô hình nhỏ, chưa tạo được sản phẩm hàng hóa rõ ràng.
“Muốn công nghiệp sinh học trở thành ngành kinh tế thực thụ, chúng ta phải kết nối chặt chẽ ba trụ cột: viện - doanh nghiệp - địa phương, coi doanh nghiệp là trung tâm ứng dụng và nhà khoa học là hạt nhân đổi mới sáng tạo”, Phó Vụ trưởng Nguyễn Hữu Ninh nhấn mạnh.
Bước vào giai đoạn mới, Bộ Nông nghiệp và Môi trường xác định 03 nhóm mục tiêu trọng tâm: (1) Hoàn thiện hạ tầng nghiên cứu đạt chuẩn khu vực: Hoàn thiện các phòng thí nghiệm trọng điểm đã đầu tư; Đưa Trung tâm CNSH thủy sản (Viện NTTS II) vào vận hành; Chuẩn hóa hệ thống an toàn sinh học, truy xuất nguồn gốc và quản lý dữ liệu sinh học theo chuẩn quốc tế. (2) Đổi mới cơ chế chính sách và huy động vốn xã hội hóa: Áp dụng cơ chế đặt hàng nghiên cứu - sản xuất theo nhu cầu thị trường; Thúc đẩy hợp tác công - tư (PPP) trong nghiên cứu và thương mại hóa sản phẩm sinh học; Hình thành chuỗi đổi mới sáng tạo liên kết giữa doanh nghiệp - viện - trường - nông dân. (3) Phát triển nguồn nhân lực công nghệ sinh học: Đào tạo chuyên sâu 1.000 cán bộ, kỹ thuật viên; Hỗ trợ 200 cán bộ học tập nâng cao ở nước ngoài; Tăng cường kết nối mạng lưới chuyên gia quốc tế, đẩy mạnh hợp tác chuyển giao công nghệ tiên tiến.
Với hướng đi này, Bộ đặt mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ có hệ sinh thái công nghiệp sinh học nông nghiệp hoàn chỉnh, trong đó ít nhất 60% sản phẩm công nghệ sinh học phục vụ sản xuất trong nước được thương mại hóa, và 15 - 20% có khả năng xuất khẩu.
Như vậy, giai đoạn 2021-2025 đã đặt nền móng hạ tầng, thể chế và nhân lực cho công nghiệp sinh học nông nghiệp Việt Nam. Bước sang giai đoạn 2026-2030, ngành sẽ chuyển trọng tâm từ xây dựng năng lực sang khai thác giá trị, từ đầu tư cơ sở vật chất sang phát triển thị trường sản phẩm sinh học, hướng tới mục tiêu lớn hơn: biến công nghệ sinh học thành động lực then chốt cho tăng trưởng xanh và nông nghiệp hiện đại.
Nhìn tổng thể, giai đoạn 2021-2025 đã hoàn thành sứ mệnh đặt nền móng hạ tầng, thể chế và nhân lực cho công nghiệp sinh học nông nghiệp. Bước sang giai đoạn 2026-2030, ngành nông nghiệp Việt Nam hướng tới chuyển dịch từ xây dựng năng lực nghiên cứu sang tạo ra giá trị thương mại, từ đầu tư cơ sở vật chất sang phát triển chuỗi sản phẩm công nghệ sinh học, hình thành thị trường công nghệ sinh học nông nghiệp mang tầm khu vực.
Nếu coi công nghiệp sinh học là “bộ não” của nông nghiệp hiện đại, thì giống cây trồng và vật nuôi chính là trái tim - nơi công nghệ trực tiếp tạo ra giá trị kinh tế, quyết định năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam.
Các chuyên gia tại hội thảo đều thống nhất rằng, đổi mới công nghệ giống chính là khâu đột phá đầu tiên để biến công nghiệp sinh học thành ngành hàng chiến lược của quốc gia.
Công nghệ gen - Hướng đi tất yếu
Trong tham luận của mình, GS.TS Lê Huy Hàm, Viện Di truyền Nông nghiệp, nhấn mạnh: “Trên thế giới, các nước phát triển đã chuyển trọng tâm từ công nghệ biến đổi gen (GMO) sang công nghệ chỉnh sửa gen (gene editing), trong đó nổi bật là kỹ thuật CRISPR/Cas9. Công nghệ này cho phép chỉnh sửa chính xác từng cặp base ADN mà không đưa gen ngoại lai vào, vì vậy sản phẩm tạo ra an toàn hơn và được xã hội chấp nhận cao hơn”.
Theo GS.TS Lê Huy Hàm, Việt Nam cần chủ động đón đầu xu hướng này, sớm xây dựng khung pháp lý và tiêu chuẩn đạo đức khoa học cho nghiên cứu và ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen trong chọn tạo giống. Đồng thời, ông kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường tăng cường đầu tư vào cơ sở dữ liệu gen, xây dựng ngân hàng gen quốc gia, coi đây là “tài sản chiến lược của đất nước” phục vụ cho công tác chọn tạo giống, bảo tồn nguồn gen quý và chia sẻ dữ liệu quốc tế.
“Nếu không có cơ sở dữ liệu gen chuẩn hóa và đồng bộ, Việt Nam sẽ mãi chỉ ở mức nghiên cứu mô phỏng, không thể tiến tới sản xuất thương mại hóa quy mô lớn”, GS.TS Lê Huy Hàm nhấn mạnh.
Ngoài ra, GS.TS Lê Huy Hàm cũng chỉ ra rằng công nghệ gen không chỉ giới hạn trong cây trồng, mà còn mở ra cơ hội lớn cho nghiên cứu vi sinh vật đất, enzyme và vi khuẩn có lợi, góp phần tăng sức đề kháng tự nhiên cho cây trồng và giảm phụ thuộc vào hóa chất nông nghiệp - hướng đi phù hợp với mục tiêu phát triển nông nghiệp sinh thái, tuần hoàn và xanh.
Tiếp nối chủ đề về giống, PGS.TS Phạm Doãn Lân, Viện Chăn nuôi, trình bày kết quả nổi bật trong ứng dụng công nghệ sinh học chọn tạo giống vật nuôi. Theo PGS.TS Phạm Doãn Lân, Viện đã áp dụng chọn lọc bằng marker di truyền (MAS) và giải trình tự gen thế hệ mới (NGS) trong các chương trình lai tạo giống lợn, gà và vịt, giúp rút ngắn 30-40% chu kỳ chọn lọc, đồng thời tăng đáng kể khả năng kháng bệnh và thích nghi khí hậu.
“Nếu trước đây phải mất gần 10 năm để hình thành một dòng giống mới, thì với công nghệ sinh học, thời gian này có thể rút ngắn xuống còn 5- 6 năm mà vẫn bảo đảm tính ổn định và năng suất cao”, PGS.TS Phạm Doãn Lân cho biết.
Đáng chú ý, Viện Chăn nuôi đã bảo tồn và tái phát triển thành công giống lợn ỉ - một nguồn gen bản địa quý của Việt Nam, bằng công nghệ nhân bản phôi và lưu trữ tinh đông lạnh. Đây được xem là bước đột phá vừa mang ý nghĩa khoa học, vừa có giá trị văn hóa - kinh tế, khi kết hợp được bản sắc giống nội với công nghệ sinh học hiện đại.
“Ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi không chỉ để tạo ra con giống tốt hơn, mà còn hướng tới mục tiêu cao hơn là an ninh sinh học và an toàn thực phẩm, đảm bảo ngành chăn nuôi phát triển bền vững”, PGS.TS Phạm Doãn Lân nhấn mạnh.
Các đại biểu tại hội thảo đều cho rằng, những tiến bộ trong công nghệ gen và sinh học chăn nuôi sẽ không có ý nghĩa nếu dừng lại ở nghiên cứu, mà phải được đưa vào sản xuất thực tiễn. Đây chính là lý do Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang thúc đẩy cơ chế “đặt hàng nghiên cứu gắn với thị trường” - trong đó các Viện, Trường đảm nhận phần nghiên cứu nền tảng, còn doanh nghiệp tham gia ngay từ đầu để đảm bảo kết quả có thể ứng dụng và thương mại hóa.
Giống cây trồng, vật nuôi: Cốt lõi của công nghiệp sinh học
GS.TS Lê Huy Hàm, Viện Di truyền Nông nghiệp, phân tích xu thế thế giới: “Công nghệ chỉnh sửa gen (gene editing) đang thay thế dần công nghệ biến đổi gen (GMO). Nhiều quốc gia đã thương mại hóa các giống cây chỉnh sửa gen kháng sâu bệnh mà không tạo ra gen ngoại lai”.
GS.TS Lê Huy Hàm cho rằng, Việt Nam cần chủ động nghiên cứu, phát triển các giống cây trồng và vật nuôi bằng công nghệ gen chính xác, đồng thời xây dựng ngân hàng gen quốc gia hiện đại, tích hợp dữ liệu sinh học mở. Nếu không có dữ liệu gen chuẩn hóa, chúng ta sẽ mãi chỉ dừng ở mức nghiên cứu mô phỏng, không thể tạo ra giá trị kinh tế thực sự.
PGS.TS Phạm Doãn Lân, Viện Chăn nuôi, tiếp tục phát triển chủ đề này với tham luận về chọn tạo giống vật nuôi bằng công nghệ sinh học. Ông nêu rõ, Viện đã áp dụng marker di truyền (MAS) trong chọn lọc giống lợn, gà, thủy cầm, giúp rút ngắn 30- 40% chu kỳ lai tạo, đồng thời nâng cao khả năng kháng bệnh và thích nghi khí hậu.
“Ứng dụng công nghệ gen không chỉ giúp tăng năng suất, mà còn là giải pháp căn cơ cho an ninh sinh học và an toàn thực phẩm”, PGS.TS Phạm Doãn Lân nhấn mạnh.
Ứng dụng và thương mại hóa: Từ phòng thí nghiệm ra thị trường
Tại Hội nghị, ông Nguyễn Văn Hùng, Giám đốc Công ty Cổ phần Khoa học Công nghệ Tảo Việt Nam, chia sẻ mô hình nuôi trồng tảo Spirulina platensis quy mô công nghiệp và bán công nghiệp tại Việt Nam.
“Tảo Spirulina có thể được khai thác cho thực phẩm chức năng, dược phẩm và mỹ phẩm. Chúng tôi đã hoàn thiện quy trình nuôi tảo năng suất cao và sản xuất bột tảo tinh khiết 100%, nhưng chi phí đầu vào còn cao”. Ông Nguyễn Văn Hùng đề nghị chính sách ưu đãi thuế và tín dụng cho doanh nghiệp công nghệ sinh học, đặc biệt trong giai đoạn chuyển giao từ nghiên cứu sang thương mại hóa sản phẩm.
Theo báo cáo của CropLife Việt Nam về công nghệ chỉnh sửa gen và khung pháp lý toàn cầu, CropLife Việt Nam cho rằng: “Chỉnh sửa gen (CRISPR/Cas9) không tạo sinh vật biến đổi gen theo nghĩa truyền thống, mà chỉ thay đổi chính xác đoạn ADN đã có trong tự nhiên. Vì vậy, nhiều quốc gia đã ban hành chính sách riêng để khuyến khích nghiên cứu loại hình này”.
CropLife khuyến nghị Việt Nam cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý thử nghiệm an toàn sinh học và phân loại rõ giữa GMO và công nghệ chỉnh sửa gen, để tạo điều kiện cho doanh nghiệp đổi mới sáng tạo.
Công nghệ sinh học trong y - thú y và môi trường
Theo Viện Thú y, Việt Nam đã đạt bước tiến đáng kể trong nghiên cứu và sản xuất vắc xin công nghệ sinh học. Viện đã làm chủ công nghệ tái tổ hợp ADN trong sản xuất vắc xin cúm gia cầm H5N1 và dịch tả lợn châu Phi. Một số loại đã qua giai đoạn thử nghiệm thực tế và hướng tới thương mại hóa vào năm 2027.
Theo báo cáo của Viện Thú y, báo cáo đã nhấn mạnh tầm quan trọng của chuỗi liên kết nghiên cứu - thử nghiệm - sản xuất - cấp phép để rút ngắn thời gian ứng dụng công nghệ sinh học vào thực tiễn.
Ngoài ra, trong chương trình Hội thảo, các chuyên gia cũng tập trung vào công nghệ sinh học môi trường, đề xuất ứng dụng vi sinh vật trong xử lý chất thải nông nghiệp, giảm phát thải khí nhà kính và phục hồi đất canh tác. Các đại biểu thống nhất rằng nông nghiệp sinh học phải gắn liền với phát triển xanh và kinh tế tuần hoàn.
Định hướng hành động và tầm nhìn chiến lược cho giai đoạn mới
Phát biểu kết thúc hội thảo, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến đánh giá cao những kết quả bước đầu của Đề án, khẳng định công nghiệp sinh học nông nghiệp đã có chuyển biến rõ rệt, tạo nền tảng cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu lớn hơn, chúng ta cần nhìn thẳng vào thực tế, xác định rõ vị trí của mình và hướng đi cụ thể trong bối cảnh mới của thế giới.
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến yêu cầu Vụ Khoa học và Công nghệ chủ trì rà soát toàn bộ hiện trạng, đề xuất các giải pháp tổng thể và đột phá nhằm xây dựng hệ sinh thái công nghiệp sinh học nông nghiệp hiện đại, hiệu quả và bền vững.
“Sau khi nghe các tham luận, chúng ta đã thấy rõ mình đang ở đâu và cần làm gì để công nghệ sinh học thực sự trở thành động lực phát triển của ngành”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh.
Theo chỉ đạo, các đơn vị chuyên môn cần tập trung vào 03 trụ cột lớn:
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế và cơ chế chính sách. Thứ trưởng yêu cầu rà soát toàn diện các quy định, thông tư, nghị định liên quan đến công nghệ sinh học, đảm bảo đồng bộ và thống nhất, tránh chồng chéo, tạo môi trường pháp lý thông thoáng cho nghiên cứu và ứng dụng. “Thể chế chính là khung xương cho công nghiệp sinh học. Nếu thể chế chưa thông, công nghệ khó phát triển”, Thứ trưởng lưu ý.
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cũng đề nghị sớm sửa đổi các quy định về khảo nghiệm, kiểm nghiệm và kiểm định sản phẩm sinh học để phù hợp với tình hình mới, giảm độ trễ trong việc công nhận và thương mại hóa sản phẩm.
Thứ hai, phát triển theo chuỗi và giải pháp liên ngành: Thứ trưởng nhấn mạnh cần xây dựng các nhiệm vụ, chương trình nghiên cứu theo chuỗi giá trị, gắn kết giữa nông nghiệp tuần hoàn, hữu cơ, giảm phát thải và chuyển đổi số. Thứ trưởng yêu cầu các viện, trường, doanh nghiệp phối hợp để xây dựng các “công trình tổng thể”, trong đó có người chịu trách nhiệm chính, có sản phẩm cụ thể và lộ trình rõ ràng.
“Nếu vẫn manh mún, nhỏ lẻ, chúng ta sẽ không thể tạo ra sức bật. Phải có những tổng công trình sư, những chương trình quy mô lớn để định hình sức mạnh Ngành, Thứ trưởng đã chỉ rõ.
Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực và hợp tác quốc tế. Thứ trưởng đặt ra yêu cầu cụ thể về quy hoạch, đào tạo và sử dụng nhân lực công nghệ sinh học. “Cần xác định rõ có bao nhiêu người tham gia, họ được đào tạo ở đâu, làm gì, tiến độ và kết quả ra sao. Mỗi công việc phải rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm”, Thứ trưởng nhấn mạnh.
Đồng thời, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo để xây dựng chương trình đào tạo phù hợp, gắn kết giữa Nhà trường - Viện nghiên cứu - Doanh nghiệp. Thứ trưởng cũng đề nghị, tăng cường hợp tác quốc tế, học hỏi kinh nghiệm của các tập đoàn và quốc gia thành công trong công nghệ sinh học, hướng tới hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Thứ tư, tăng cường truyền thông, lan tỏa tri thức khoa học: Bên cạnh công tác chuyên môn, Thứ trưởng yêu cầu đẩy mạnh truyền thông khoa học, coi đây là một phần không thể tách rời trong chiến lược phát triển công nghiệp sinh học. Hàng năm, cần có nguồn kinh phí riêng cho hoạt động truyền thông, hội thảo, trao đổi chuyên gia và phổ biến kiến thức công nghệ sinh học tới cộng đồng và doanh nghiệp.
“Khoa học chỉ thực sự có giá trị khi được hiểu, được ứng dụng và được xã hội ủng hộ. Truyền thông là cầu nối giữa nhà khoa học và người dân”, Thứ trưởng nhấn mạnh.
Kết thúc phát biểu chỉ đạo, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến khẳng định: “Chúng ta đã có giai đoạn khởi đầu quan trọng, nhưng cần đi sâu hơn, phân tích rõ kết quả và hiệu quả của từng lĩnh vực. Mọi đề xuất, nhiệm vụ phải được cụ thể hóa thành chuỗi hành động, gắn với chiến lược phát triển nông nghiệp tuần hoàn, hữu cơ, giảm phát thải và chuyển đổi số”.
Thứ trưởng yêu cầu toàn ngành chuyển từ nhận thức sang hành động, từ tiềm năng sang kết quả thực chất, đồng thời xây dựng hệ sinh thái công nghệ sinh học nông nghiệp mạnh, có định hướng, có con người, có đầu tư và có sản phẩm cụ thể.
“Mỗi cuộc họp, mỗi hội thảo phải tạo ra một bước tiến, một kết quả cụ thể. Chỉ khi đó, công nghiệp sinh học mới thực sự trở thành động lực phát triển của nông nghiệp và môi trường Việt Nam”, Thứ trưởng yêu cầu.
Hội thảo khép lại với tinh thần thống nhất cao, công nghiệp sinh học là trụ cột của nông nghiệp hiện đại, là con đường tất yếu để Việt Nam xây dựng nền nông nghiệp xanh, tuần hoàn và có giá trị gia tăng cao. Phát biểu chỉ đạo, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh: mọi chính sách, nghiên cứu và đầu tư trong giai đoạn tới phải rõ người, rõ việc, rõ sản phẩm, rõ hiệu quả, hướng đến xây dựng hệ sinh thái công nghiệp sinh học vững mạnh, nơi khoa học, doanh nghiệp và con người cùng tạo nên sức bật mới cho nông nghiệp Việt Nam.