Tục thờ nước vùng Đồng bằng sông Hồng

Thứ năm, 28/3/2024, 15:21 (GMT+7)
logo Đồng bằng sông Hồng là cái nôi của các loại hình tín ngưỡng, lễ hội dân gian Việt Nam. Trong đời sống tinh thần của người dân nơi đây, sinh hoạt tín ngưỡng chiếm một vị trí quan trọng. Tín ngưỡng thờ nước và nghi lễ thỉnh nước trong các lễ hội dân gian của cộng đồng cư dân cùng Đồng bằng sông Hồng cũng chính là đặc điểm của tín ngưỡng dân gian Việt Nam, phản ánh đậm nét nhân sinh quan, bản sắc văn hóa của người Việt.

Tục thờ nước vùng Đồng bằng sông Hồng

Nghi lễ rước nước

Thờ nước là tín ngưỡng có tự lâu đời, có thể là từ thời đại các vua Hùng, nó gắn liền với đời sống tâm linh của người Việt nói chung, nhất là cư dân vùng Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) - nơi mang đậm dấu ấn của văn hóa sông nước. Đó là nhận định của nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Quang Khải, người đã dành nhiều năm nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian. Từ bao đời nay, trong bất kỳ nghi thức thờ cúng nào của cư dân Đồng bằng Bắc Bộ nói riêng, người Việt nói chung, nước cũng là thứ không thể thiếu. Đó là chén nước trên ban thờ gia tiên trong bất cứ dịp nào, là chóe nước, chậu nước trong các nghi thức của đình, của làng,…

Sự tôn quý đối với nước trong tâm thức dân gian còn thể hiện trong nghi thức thỉnh nước (hay còn gọi là rước nước) trong hầu hết lễ hội ở vùng ĐBSH. Thỉnh nước là nghi lễ đặc sắc biểu hiện tín ngưỡng cầu nước của những cư dân sống với nền văn minh lúa nước ven sông.

Điểm đặc trưng của nghi lễ rước nước là đều được tiến hành trang trọng tại các điểm di tích lịch sử - văn hóa. Nguồn nước để rước đều ở những con sông lớn hoặc giếng nước gắn với lịch sử, câu chuyện về nhân vật phụng thờ ở di tích. Đoàn rước nước thường có quy mô lớn với đầy đủ đội cờ, đội múa lân, sư, rồng, phường bát âm, đội tế nam quan, nữ quan,… Trong nghi thức, chum hoặc chóe sứ cỡ lớn là vật dụng được dùng để đựng nước. Chóe (hoặc chum) được đặt trang trọng trên kiệu bát cống (kiệu do 8 người khiêng). Nước được rước về phải được lấy ở khu vực giữa sông, nơi có nguồn nước tinh khiết nhất. Khi rước về đình/làng, nước thường được dùng để làm lễ; để lau rửa long ngai bài vị của thần trong đình/đền và còn để tưới cây khu vực quanh đình,...

Bao đời nay, rước nước sông Hồng trở thành nghi thức vô cùng thiêng liêng trong lễ hội ở nhiều vùng dân cư của Thủ đô Hà Nội vào những ngày đầu năm. Tiêu biểu phải kể đến như làng Thổ Khối (quận Long Biên) thôn Xuân Canh (xã Xuân Canh, huyện Đông Anh); làng Yên Duyên (phường Yên Sở, quận Hoàng Mai); làng Chèm (phường Thụy Phương, quận Bắc Từ liêm); xã Liên Hà (huyện Đan Phượng) hay làng Cát Bi (huyện Phú Xuyên),… Riêng làng Nhật Tân (quận Tây Hồ), đã thành thông lệ, cứ 5 năm một lần, người dân trong làng lại long trọng tổ chức lễ rước nước từ giữa sông Hồng về đình tế lễ. Nước được lấy từ giữa ngã ba sông, sau khi rước về sẽ được lưu tại đình trong vòng 5 năm vô cùng trân quý,…

Lễ hội cầu nước và trị thuỷ của người Việt ven sông Hồng vùng Hà Nội trong quan hệ với tục thờ Đá

Đây là hình thức tín ngưỡng dân gian có ảnh hưởng khá rõ trong hai nhóm lễ hội liên quan đến yếu tố nước. Điều này có cơ sở từ vai trò và ý nghĩa của Đá trong tâm thức dân gian. Với tính chất cứng rắn, đá luôn được cho là biểu tượng của sự hiện diện của thần linh, tạo nên sức mạnh. Đối với nhiều cộng đồng trên thế giới, các công cụ bằng đá không chỉ đơn thuần là vật dụng lao động, nó là vật thiêng mang ý nghĩa ma thuật. Đá còn là đặc trưng cơ bản của núi. Hình dáng sừng sững của núi lại thường được xem như trục vũ trụ, thông linh giữa trời và đất, đá vì thế có thể là phương tiện để truyền đạt mong muốn của con người với các thế lực siêu nhiên khác. Và đương nhiên, có một mong muốn rất mãnh liệt mà con người đã từng gửi gắm vào đá: Đá có thể mang sức mạnh điều chỉnh nguồn nước theo khẩn nguyện của con người. Hiện tượng đá cầu mưa phổ biến trên thế giới là minh chứng về lớp ý nghĩa chuyển tải khát vọng trần thế của con người qua đá. 

Những ý nghĩa căn bản của đá đều có thể tìm thấy trong cả hai nhóm lễ hội cầu nước và trị thuỷ của người Việt ven sông Hồng vùng Hà Nội. Tục thờ Tứ Pháp ở chùa Sét trong quan hệ với đức Thạch Quang Phật phần nào cho thấy: Đá trong lễ hội này đã mang ý nghĩa của một sinh thực khí. Thạch Quang Phật (hiện được thờ ở chùa Dâu) là bức tượng đá mang ý nghĩa truyền sinh lực và pháp thuật tạo mưa của nhà sư Khâu Đà La cho Tứ pháp đã giữ vai trò sinh tạo. 

Với vai trò của một thực thể chứa đựng linh hồn thiêng liêng, phiến đá mà Linh lang Đại vương gối lên khi hoá, thờ trong đền Voi Phục đã gắn kết quan hệ giữa đá thiêng với con giao long dài trăm trượng trườn xuống Hồ Tây. Trong lần giáng độ cứu đời, đức Huyền Thiên Trấn Vũ, một vị thần trị thuỷ, đã để lại vết chân ở tảng đá lớn trên đỉnh núi Sái. Núi Sái vì vậy trở thành núi thiêng, là nơi tu hành của người có công giúp vua Thục ngăn nước, xây thành.

Đức Bạch Hạc Tam Giang có nguồn gốc thuỷ thần khi chưa được rước về Yên Nội đã phối thờ cùng Thạch Khanh tướng quân ở đền Bạch Hạc. Thạch Khanh chính là Thần Đá. Trong mối quan hệ cặp đôi này, người ta nhận thấy núi và nước cho đến tận vùng đất ngã ba sông này vẫn chưa bị thể hiện thành hai sự đối lập. Cả hai đều được sinh từ bọc trứng mà rồng thần ban tặng, cùng từ nước sinh ra.

Phổ biến hơn hết, trong các lễ hội cầu nước và trị thuỷ ven sông Hồng vùng Hà Nội, đá được thể hiện trong vai trò là núi. Núi hội tụ được cả hình thể kì vĩ, tính chất cứng rắn và cả tư thế đối lập với nước khiến nó trở thành yếu tố xuất hiện quen thuộc trong nhóm lễ hội mang ý nghĩa trị thuỷ. Quan hệ bản chất giữa đá và nước đã trở thành lưỡng phân, thành đối kháng. Nó thể hiện qua hình ảnh người Khổng Lồ. Người Khổng Lồ là một sản phẩm của tư duy thần thoại, khi đó, con người mới bắt đầu có ý niệm về ý thức vật chất. Dần dần, người Khổng Lồ đã mang nguồn gốc và được gắn với một hình dạng so sánh cụ thể. Trong nhu cầu của sự so sánh ấy, rất tự nhiên, hình ảnh núi luôn được sử dụng. Núi đã không còn chỉ là nơi in dấu vết người Khổng Lồ khi di chuyển, núi là chính người Khổng Lồ đang tồn tại. Núi được đồng nhất với người Khổng Lồ bởi cùng chung tính chất kì vĩ, chung tính chất bắc cầu từ thế giới siêu nhiên đến nơi trần thế. Sơn Tinh là biểu tượng đã được tạo nên trong quá trình phát triển như thế của tư duy nguyên thuỷ. Lực lượng đại diện cho thiên nhiên hay cho khả năng chinh phục thiên nhiên đều được nhân lên theo sức mạnh của tự nhiên. Thánh Chèm, Sơn Tinh, Thánh Gióng, Linh Lang, Huyền Thiên Trấn Vũ, thành hoàng Lệ Mật,... tuy mang tính chất khổng lồ khác nhau nhưng suy cho cùng đều thể hiện dấu vết của tục thờ Núi, thờ Đá trong quan hệ với mục đích điều hoà nguồn nước của người Việt cổ. Tên gọi Phù Đổng, vì thế, thực chất chỉ mang nghĩa là núi đá.

Lễ hội truyền thống vùng châu thổ sông Hồng nói chung thường được tổ chức vào mùa thu và mùa xuân theo lịch sản xuất nông nghiệp. Điều này cho thấy, về bản chất, các lễ hội dân gian truyền thống của người Việt, hầu hết, đều mang ý nghĩa cầu mùa. Lễ hội cầu nước và trị thuỷ của người Việt ven sông Hồng vùng Hà Nội, do tính chất cụ thể trong ý nghĩa của việc tổ chức hội, càng thể hiện mối liên quan chặt chẽ đó. Việc rước tượng Tứ Pháp qua bốn ngôi chùa hàng tổng là: Chùa Sét, chùa Pháp Vân, chùa Yên Duyên, chùa Dâu để cầu mưa, phục vụ sản xuất là nghi thức quen thuộc mà trước Cách mạng tháng 8, do tính chất di chuyển gần gũi bằng đường sông, các làng vẫn thường làm. Nhà Lê vẫn có tục đến chùa Vua làm lễ cầu mưa trong dịp đầu năm. Những lễ hội được tổ chức vào tháng 3, 4, 5, 8, tuy không nhiều, và có vẻ như không gắn bó với lịch sản xuất nông nghiệp, nhưng chính thời điểm tổ chức này lại thể hiện tính khác biệt cho nhóm lễ hội liên quan đến nước ven sông Hồng vùng Hà Nội. Hội đình Chèm được tổ chức vào tháng 5, hội Dóng vào tháng 4, hội chùa Hàng Khoai, hội làng Lệ Mật là tháng 3, hội đền Và tháng 8, những lễ hội này đều nằm trong nhóm thể hiện khát vọng trị thuỷ. Thời điểm tổ chức lễ hội như vậy là đã khá tương khớp với mùa con nước từ thượng nguồn sông Hồng. Tháng 3 âm lịch đã có những cơn mưa lớn, tháng 4 gắn với lũ tiểu mãn, tháng 5, 6 là lũ về thường xuyên, tháng 7, 8 là đỉnh lũ. Việc tổ chức lễ hội về các nhân vật anh hùng có công trấn diệt loài thuỷ tặc vào những thời điểm không phổ biến như trên, chắc chắn cho thấy mối quan hệ của lễ hội với nỗi sợ hãi con nước của cư dân nông nghiệp. Sự cầu mong điều hoà nguồn nước không thể mang ý nghĩa khác với mục đích cầu mong cho con người và vạn vật sinh sôi.

PHƯƠNG CHI

Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 1+2 năm 2024