Ứng dụng và thương mại hóa công nghệ sinh học - Chìa khóa hình thành ngành kinh tế tri thức nông nghiệp

Thứ sáu, 7/11/2025, 21:37 (GMT+7)
logo Trong kỷ nguyên chuyển đổi xanh và kinh tế tri thức, công nghệ sinh học đang được xem là “động cơ kép” thúc đẩy nền nông nghiệp hiện đại. Ở Việt Nam, quá trình ứng dụng và thương mại hóa công nghệ sinh học sau 5 năm triển khai Đề án 429/QĐ-TTg (2021-2025) đã tạo nền tảng quan trọng, nhưng vẫn đối mặt với những rào cản về thể chế, nguồn lực và thị trường. Làm thế nào để tri thức khoa học thực sự trở thành sức mạnh của nền nông nghiệp hàng hóa, hướng tới ngành kinh tế sinh học - kinh tế tri thức nông nghiệp?
cong-nghe-sinh-hoc-trong-nong-nghiep-3-1200x675_1762397857.webp
Ảnh minh họa

Từ phòng thí nghiệm đến cánh đồng, những bước tiến đáng ghi nhận

Theo báo cáo của Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), giai đoạn 2021-2025, cả nước đã triển khai hơn 60 nhiệm vụ khoa học - công nghệ thuộc Đề án phát triển công nghiệp sinh học. Nhiều kết quả nổi bật đã được thương mại hóa, tiêu biểu như giống lúa chỉnh sửa gen tăng năng suất 15%, chế phẩm sinh học Bio-VAAS.1 phòng bệnh chảy gôm trên cây có múi, hay vắc xin sinh học phòng bệnh viêm ruột hoại tử trên gia cầm.

anh-ninh_1762398824.webp
Ông Nguyễn Hữu Ninh - Phó Vụ trưởng Vụ khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường 

Đặc biệt, Công ty Cổ phần Khoa học và Công nghệ Tảo Việt Nam là một trong những mô hình doanh nghiệp tiêu biểu ứng dụng công nghệ sinh học thành công. Với 03 cơ sở sản xuất tại Bình Thuận, Ninh Thuận và Hòa Bình, diện tích hơn 25 ha, Tảo Việt Nam áp dụng công nghệ quang sinh cảm biến tự động (IoT) điều chỉnh pH, ánh sáng và nhiệt độ, giúp năng suất tăng 30%, đạt 7 - 8 tấn tảo khô/năm. Hàm lượng protein đạt 60 - 65%, phycocyanin 12 -14%, beta-carotene 1,5 -1,8%, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang Nhật Bản, Hàn Quốc và EU.

Doanh nghiệp đã liên kết với 8 đối tác trong nước, đưa sản phẩm vào chuỗi chế biến dược phẩm và mỹ phẩm sinh học. Đây là ví dụ điển hình cho sự dịch chuyển từ “nghiên cứu trong phòng thí nghiệm” sang “sản xuất quy mô công nghiệp”.

Rào cản trên con đường thương mại hóa công nghệ sinh học

Dù đã đạt kết quả bước đầu, thương mại hóa công nghệ sinh học tại Việt Nam vẫn đối diện nhiều thách thức:

Thể chế và pháp lý chưa theo kịp thực tiễn: Hệ thống pháp luật chuyên biệt cho sản phẩm công nghệ sinh học, đặc biệt là chỉnh sửa gen và sản phẩm enzyme sinh học, vẫn đang được hoàn thiện. Thời gian cấp phép khảo nghiệm, lưu hành chế phẩm sinh học kéo dài khiến doanh nghiệp chậm bước vào thị trường. Một số quy trình kiểm định còn “độ trễ”, khiến sáng chế dễ rơi vào vòng luẩn quẩn, đó là nghiệm thu - cất ngăn kéo.

thu-truong_1762399296.webp
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến 

Cơ chế tài chính còn cứng nhắc: Đa số nguồn vốn cho nghiên cứu công nghệ sinh học vẫn đến từ ngân sách Nhà nước; chưa hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm cho R&D nông nghiệp sinh học. Các ưu đãi thuế, tín dụng, hay cơ chế định giá tài sản trí tuệ vẫn còn thiếu, khiến doanh nghiệp khó thu hút vốn tư nhân.

Nhân lực và liên kết yếu: Đội ngũ nhà khoa học trong lĩnh vực công nghệ sinh học tuy đông đảo nhưng còn thiếu kỹ năng chuyển giao và kinh doanh công nghệ. Mối liên kết “viện - doanh nghiệp - địa phương” mới ở mức phối hợp, chưa thành chuỗi đổi mới sáng tạo liên ngành. Theo báo cáo, hiện chỉ có 02 dự án sản xuất thử nghiệm do doanh nghiệp trực tiếp chủ trì, chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số nhiệm vụ được triển khai.

Doanh nghiệp tiên phong sẽ là động lực thúc đẩy thị trường công nghệ sinh học. Mô hình Tảo Việt Nam - từ ý tưởng nghiên cứu đến sản phẩm hàng hoá. Tảo Việt Nam đã chứng minh khả năng tự chủ công nghệ thông qua quy trình nhân giống 3 cấp, làm chủ chuỗi giá trị từ nghiên cứu - nuôi trồng - chế biến - thương mại. Nhờ ứng dụng IoT, công ty giảm 25% chi phí vận hành, đồng thời tạo công ăn việc làm cho hơn 120 lao động kỹ thuật cao. Sản phẩm đạt chứng nhận ISO 22000:2018 và Organic Certified, mở ra cơ hội xuất khẩu tảo Việt như nguyên liệu dược phẩm có giá trị cao. Tuy nhiên, đại diện doanh nghiệp chia sẻ, chi phí thiết bị nhập khẩu hiện chiếm tới 40% tổng giá thành, trong khi chính sách ưu đãi tín dụng cho lĩnh vực công nghệ sinh học chưa rõ ràng. Đây là rào cản lớn khiến mô hình chưa thể mở rộng quy mô toàn quốc.

Liên kết với khối doanh nghiệp quốc tế: Sự hợp tác giữa Bộ Nông nghiệp và Môi trường với CropLife Việt Nam và CropLife Asia giai đoạn 2023 - 2028 là một dấu mốc quan trọng. Hai bên tập trung thúc đẩy chỉnh sửa gen (CRISPR/Cas9), chuyển giao công nghệ thử nghiệm an toàn sinh học, đồng thời xây dựng khung pháp lý phân biệt rõ GMO và gene editing, tạo hành lang thuận lợi cho thương mại hóa công nghệ mới.

Giải pháp và định hướng giai đoạn 2026-2030

Hoàn thiện thể chế, khung pháp lý đặc thù cho công nghệ sinh học: (1) Ban hành Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (2025) cùng các Nghị định số 262-268/2025/NĐ-CP, tạo hành lang cho sản phẩm sinh học thương mại hóa. (2) Rà soát, sửa đổi quy định khảo nghiệm - lưu hành chế phẩm sinh học, rút ngắn quy trình thẩm định. (3) Hình thành thị trường công nghệ sinh học: Xây dựng sàn giao dịch công nghệ sinh học quốc gia, công cụ định giá và giao dịch tài sản trí tuệ minh bạch. Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư thông qua ưu đãi thuế R&D, tín dụng xanh và quỹ đổi mới sáng tạo nông nghiệp.

nganh-ky-su-nong-nghiep-thi-khoi-nao-3_1762398672.webp
Liên kết đào tạo hướng tới phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực công nghiệp sinh học. Ảnh minh họa

Phát triển nguồn nhân lực và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo: Liên kết đào tạo giữa Bộ Nông nghiệp và Môi trường - Bộ Giáo dục và Đào tạo - Doanh nghiệp, đưa nội dung thương mại hóa CNSH vào chương trình đại học và sau đại học. Xây dựng trung tâm đổi mới sáng tạo công nghiệp sinh học vùng, hỗ trợ startup trong lĩnh vực enzyme, dược liệu và vi sinh vật học ứng dụng.

Tăng cường truyền thông và hợp tác quốc tế: Phát triển cổng thông tin Agrobiotech.gov.vn như một nền tảng công khai hóa dữ liệu, kết nối nhà khoa học - doanh nghiệp - nhà đầu tư. Đẩy mạnh hợp tác song phương với Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc trong chuyển giao công nghệ và thương mại sản phẩm sinh học.

Công nghiệp sinh học nông nghiệp Việt Nam đang bước qua giai đoạn “khởi động công nghệ”, hướng tới “kinh tế tri thức”. Muốn đạt được mục tiêu xuất khẩu nông sản 100 tỷ USD như chỉ đạo của Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, khoa học - công nghệ phải thực sự “đi cùng thị trường”, không chỉ dừng ở nghiên cứu, mà phải trở thành lực kéo của đổi mới và thương mại hóa.

Khi thể chế cởi mở, doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, và nhà khoa học gắn bó với sản xuất, ngành công nghiệp sinh học Việt Nam sẽ không chỉ là một lĩnh vực nghiên cứu, mà trở thành nền tảng cho nền kinh tế tri thức nông nghiệp - xanh, thông minh và bền vững.

La Hưng