news

Ưu tiên thực hiện quản lý chất thải rắn hướng đến kinh tế tuần hoàn

Chủ nhật, 29/12/2024, 11:16 (GMT+7)
logo Tại Việt Nam, phát triển kinh tế tuần hoàn đã được xác định là một trong những mô hình kinh tế ưu tiên để thực hiện định hướng quản lý chất thải, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu, trong giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước. Do đó, thúc đẩy áp dụng kinh tế tuần hoàn vào thực tiễn cần sự chung tay tích cực của các tổ chức, người dân và cả hệ thống chính trị.

Ưu tiên thực hiện quản lý chất thải rắn hướng đến kinh tế tuần hoàn

Quản lý chất thải theo hướng kinh tế tuần hoàn

Kinh tế tuần hoàn (KTTH) không chỉ là tái sử dụng chất thải, coi chất thải là tài nguyên mà còn là sự kết nối giữa các hoạt động kinh tế một cách có tính toán từ trước, tạo thành các vòng tuần hoàn trong nền kinh tế. Trong KTTH, quản lý chất thải được xem là trung tâm và tư duy xem chất thải là tài nguyên được tiến hành ngay từ khi thiết kế các sản phẩm, dịch vụ, chu trình sản xuất, kinh doanh. Thông qua đó, KTTH giúp giảm thiểu khai thác tài nguyên thiên nhiên, hạn chế chất thải ra môi trường, nhưng vẫn thúc đẩy phát triển kinh tế. So với kinh tế tuyến tính truyền thống, KTTH mang lại nhiều lợi ích đối với quốc gia, cộng đồng và doanh nghiệp.

Theo đó, văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 13 của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2045 đã khẳng định “khuyến khích phát triển mô hình KTTH để sử dụng tổng hợp và hiệu quả đầu ra của quá trình sản xuất”. Luật BVMT 2020 đã có một Điều riêng (Điều 142) quy định về KTTH. Trong đó, xác định KTTH là “mô hình kinh tế mà trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và dịch vụ nhằm giảm thiểu khai thác nguyên vật liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn chế chất thải phát sinh và loại bỏ các tác động tiêu cực tới môi trường”. Bên cạnh đó, rất nhiều điều, khoản khác có vai trò thúc đẩy thực hiện KTTH, như: Phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn (Điều 75), tính giá thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt dựa trên khối lượng hoặc thể tích (Điều 79); trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất và nhập khẩu - EPR (Điều 54, Điều 55); tái chế, tái sử dụng chất thải, phát triển ngành công nghiệp môi trường, dịch vụ môi trường, tín dụng xanh, trái phiếu xanh,...

Đề án Phát triển KTTH ở Việt Nam ban hành theo Quyết định số 687/QĐ-TTg ngày 07/6/2022 của Thủ tướng Chính phủ, phát triển KTTH là tất yếu, phù hợp với xu hướng, yêu cầu tạo đột phá trong phục hồi kinh tế và góp phần hiện thực hóa Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050, với mục tiêu: Đến năm 2025, các dự án KTTH bước đầu đi vào thực hiện; phát huy hiệu quả kinh tế, xã hội, công nghệ và môi trường; đóng góp vào phục hồi các tài nguyên tái tạo được, giảm tiêu hao năng lượng, tăng tỉ trọng năng lượng tái tạo trên tổng cung cấp năng lượng sơ cấp, tỉ lệ che phủ rừng, tăng cường tỉ lệ tái chế rác thải, tăng cường tỉ lệ nội địa hóa của các sản phẩm nông, lâm, thủy sản và công nghiệp xuất khẩu; tái sử dụng, tái chế, xử lí 85% lượng chất thải nhựa phát sinh; giảm thiểu 50% rác thải nhựa trên biển và đại dương so với giai đoạn trước đây; giảm dần mức sản xuất và sử dụng túi ni lông khó phân hủy và sản phẩm nhựa dùng một lần trong sinh hoạt.

Đến năm 2030, các dự án KTTH trở thành một động lực chủ yếu trong giảm tiêu hao năng lượng sơ cấp, có năng lực tự chủ phần lớn hoặc toàn bộ nhu cầu năng lượng dựa trên năng lượng tái tạo và trong tăng cường tỉ lệ che phủ rừng. Tỉ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị được thu gom, xử lý đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn thông qua các mô hình KTTH đạt 50%; 100% rác thải hữu cơ ở đô thị và 70% rác thải hữu cơ ở nông thôn được tái chế; không làm phát sinh việc chôn lấp trực tiếp chất thải rắn sinh hoạt từ các mô hình KTTH ở đô thị; tối đa hóa tỉ lệ nước thải đô thị được thu gom và xử lý đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định ở các khu đô thị; giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP ít nhất 15% vào năm 2030 so với năm 2014, phát thải ròng về “0” vào năm 2050.

Thực tế, theo báo cáo của Bộ TN&MT, đến nay, tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam được thu gom xử lý tại khu vực nội thành của các đô thị trung bình đạt khoảng 96,28% (tăng 11,28% so với năm 2016). Khu vực nông thôn đạt khoảng 66% (tăng 16% so với năm 2016); trong đó, tỷ lệ chôn lấp khoảng 70%. Hiện trên cả nước có khoảng 400 lò đốt chất thải rắn sinh hoạt, 37 dây chuyền sản xuất phân compost (phân hữu cơ) tập trung, trên 900 bãi chôn lấp, trong đó có nhiều bãi chôn lấp không hợp vệ sinh.

Theo TS. Mai Thanh Dung, Phó Viện trưởng Viện CL, CS TN&MT, quản lý chất thải rắn theo hướng KTTH là một trong những ưu tiên hàng đầu của Việt Nam nhằm giải quyết ô nhiễm môi trường hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững. Ưu tiên này giúp Việt Nam đạt mục tiêu đến năm 2030, nâng tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt lên 95% ở khu vực thành thị, 90% ở khu vực nông thôn và 98% đối với chất thải nguy hại; góp phần đạt được các mục tiêu phát triển bền vững vào năm 2030 và mục tiêu phát thải ròng bằng “0” cho đến năm 2050.

Ưu tiên thực hiện quản lý chất thải rắn theo hướng kinh tế tuần hoàn 

 Trong bối cảnh ưu tiên phát triển bền vững đất nước, phát triển xanh, KTTH là một trong những mục tiêu cần hướng đến và việc xây dựng chính sách phù hợp, hành lang pháp lý rõ ràng để thực hiện KTTH là rất cần thiết. Đồng thời, phải xác định trong mục tiêu này, doanh nghiệp là động lực trung tâm, Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, các tổ chức, từng người dân là đối tượng tham gia thực hiện. 

Theo đó, để hình thành hệ thống quản lý chất thải theo hướng KTTH mỗi người dân, doanh nghiệp phải thực sự xem chất thải là tài nguyên, sẵn sàng nói không với việc sản xuất, sử dụng các sản phẩm gây hại cho môi trường. Trước mắt ưu tiên sử dụng hiệu quả giá trị tài nguyên thiên nhiên, tận dụng tối đa nguyên liệu, vật liệu đã qua sử dụng, hạn chế chất thải phát sinh và giảm tác động xấu đến môi trường; phát triển mạnh các mô hình sản xuất, kinh doanh áp dụng KTTH; phát triển các thực hành tốt, tạo dựng văn hóa bền vững trong sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, tiến tới hình thành xã hội tuần hoàn. Để đạt được các mục tiêu đó, trước mắt chúng ta cần KTTH trong quản lý chất thải rắn, đặc biệt tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp cụ thể như:

Thứ nhất, từng bước hoàn thiện hành lang pháp lý phục vụ cho phát triển nền KTTH. Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm cụ thể của nhà sản xuất, nhà phân phối trong việc thu hồi, phân loại và tái chế hoặc chi trả chi phí xử lý các sản phẩm thải bỏ dựa trên số lượng sản phẩm bán ra trên thị trường; quản lý dự án theo vòng đời, thiết lập lộ trình xây dựng và áp dụng quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường tương đương với nhóm các nước tiên tiến trong khu vực. Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, các tổ chức và từng người dân, doanh nghiệp tham gia thực hiện.

Thứ hai, xây dựng mô hình tăng trưởng kinh tế chiều sâu, sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu vào, áp dụng khoa học công nghệ vào các ngành, đặc biệt là xử lý rác thải để tái tạo nguyên liệu mới. Quy định lộ trình thay thế các nhiên liệu, sản phẩm sử dụng nguyên liệu nguy hại, sản phẩm sử dụng một lần bằng các nhiên liệu, nguyên liệu thân thiện với môi trường, sản phẩm sử dụng nhiều lần, kéo dài thời gian sử dụng hữu ích của sản phẩm. Xây dựng hệ thống quản lý chất thải hiệu quả: Đầu tư vào cơ sở hạ tầng và công nghệ xử lý chất thải để tối ưu hóa quá trình xử lý và tái chế. Sử dụng các công nghệ tiên tiến như xử lý sinh học, xử lý nhiệt, hay công nghệ chất thải thành năng lượng để tạo ra sản phẩm tái chế và năng lượng sạch.

Thứ ba, xây dựng chiến lược truyền thông về KTTH nhằm nâng cao nhận thức của các nhà sản xuất và công chúng về trách nhiệm của họ đối với các sản phẩm trong suốt vòng đời của chúng. Cần tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức của người dân về việc phân loại rác thải tại nguồn, tạo điều kiện cho công tác thu gom, vận chuyển đưa vào tái sử dụng, tái chế được thuận lợi và dễ dàng hơn.

Thứ tư, điều chỉnh quy hoạch năng lượng, giảm dần sự phụ thuộc vào các dạng năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch, thủy điện; kiểm soát, thu hút có chọn lọc dự án đầu tư trên cơ sở xem xét các yếu tố về quy mô sản xuất, công nghệ sản xuất, kỹ thuật môi trường và vị trí thực hiện dự án. Xây dựng lộ trình chuyển đổi công nghệ dựa trên các tiêu chí tiết kiệm và hiệu quả năng lượng, giảm thiểu chất thải.

Thứ năm, cần có một cơ quan chuyên môn để giám sát hoạt động này, đảm bảo rằng mỗi người dân, mỗi cơ sở sản xuất đều phải triển khai thực hiện các chính sách pháp luật cũng như thực hiện tốt sản xuất xanh - sạch, xử lý rác thải để tái tạo nguyên liệu mới. Bên cạnh đó, việc xây dựng chiến lược, lộ trình phát triển của các doanh nghiệp cũng cần có người kiểm tra, phê duyệt để đưa ra khuyến nghị, giải pháp kịp thời, tránh mắc sai lầm gây ảnh hưởng đến môi trường, lãng phí tài nguyên.

NGUYÊN KHÔI
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 17 (Kỳ 1 tháng 9) năm 2024