Với truyền thống đoàn kết cộng đồng, chính sách đối ngoại cởi mở, cùng phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, các quốc gia đều là bạn, lợi ích hài hòa, rủi ro cùng chia sẻ, Việt Nam đã và đang xây dựng nền tảng vững chắc để cộng đồng thực sự trở thành trung tâm của quá trình phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.

VAI TRÒ LỊCH SỬ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Trong suốt hành trình phát triển đất nước, cộng đồng luôn là nền tảng tạo nên sức mạnh bền vững của Việt Nam. Đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường, sự tham gia trực tiếp của người dân đã góp phần quan trọng vào việc vừa duy trì sinh kế, vừa bảo tồn và khôi phục các giá trị tự nhiên. Trong hành trình đó, cộng đồng dân cư, đặc biệt là cộng đồng nông thôn, luôn giữ vai trò trung tâm, vừa đảm bảo an ninh lương thực vừa là lực lượng tiên phong đưa các mô hình phát triển xanh vào thực tiễn trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.
Trước đây, quản lý tài nguyên thiên nhiên được tổ chức theo các quy ước, hương ước truyền thống, dựa trên sự đồng thuận cộng đồng và mục tiêu chung là bảo vệ các nguồn tài nguyên có giới hạn. Điều này tạo nên một nền tảng bản địa bền vững, từ việc giữ rừng đầu nguồn, phân chia công bằng nước tưới đến quy định khai thác thủy sản theo mùa để bảo tồn nguồn lợi tài nguyên thiên nhiên.
Ngày nay, trước bối cảnh biến đổi khí hậu, suy thoái tài nguyên và áp lực đô thị hóa, cộng đồng một lần nữa khẳng định vị thế trung tâm trong tiến trình phát triển bền vững. Họ không chỉ là đối tượng thụ hưởng chính sách mà còn là tác nhân trực tiếp, từ việc bảo vệ rừng, trồng rừng ngập mặn, quản lý nghề cá, cho đến phân loại rác thải, phát triển nông nghiệp sinh thái và kinh tế tuần hoàn. Những kết quả đạt được minh chứng rằng phát huy vai trò cộng đồng là con đường tất yếu để gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, đồng thời đáp ứng các cam kết quốc tế của Việt Nam về khí hậu và phát triển bền vững.
Trong lịch sử Việt Nam, nhiều quy định chặt chẽ liên quan đến việc sử dụng tài nguyên đã được đặt ra. Các hương ước, lệ làng truyền thống thường đề cập đến việc giữ rừng đầu nguồn, bảo vệ nguồn nước chung, phân chia công bằng dòng chảy tưới tiêu, hay quy định khai thác thủy sản theo mùa. Chính những hương ước này đã tạo nên một nền tảng bản địa của quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng.
Sau chiến tranh, khi Việt Nam còn nghèo khó, sức dân tiếp tục được huy động vào các phong trào trồng cây gây rừng, đào kênh mương thủy lợi, khai hoang mở rộng diện tích canh tác. Những phong trào lớn như “Tết trồng cây” hay “Thủy lợi là quốc sách” đều dựa vào tinh thần đoàn kết cộng đồng. Nhờ đó, Việt Nam từng bước vượt qua tình trạng thiếu lương thực, ổn định sản xuất nông nghiệp và cải thiện đời sống nông thôn.
SỰ CHUYỂN ĐỔI MẠNH MẼ QUA THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP
Kể từ khi công cuộc Đổi mới được khởi xướng vào năm 1986, các chính sách như giao đất, giao rừng đã giúp người dân địa phương có quyền sở hữu và sử dụng tài nguyên thiên nhiên rõ ràng hơn. Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, được ban hành vào năm 2010, đã tạo ra một cơ chế khuyến khích kinh tế bền vững bằng cách chuyển hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm từ các doanh nghiệp thủy điện, đơn vị cấp nước sạch và cơ sở du lịch sinh thái đến cộng đồng địa phương để chi trả cho công tác bảo vệ rừng. Mô hình tiên phong này đã thay đổi nhận thức của người dân: Rừng không còn được xem là nguồn tài nguyên để khai thác, mà là “ngân hàng xanh” lâu dài, mang lại sinh kế ổn định và các dịch vụ hệ sinh thái thiết yếu.
THÀNH TỰU NỔI BẬT CỦA PHÁT TRIỂN KINH TẾ GẮN VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ THÚC ĐẨY VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG
Nhờ những chính sách như vậy, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Tỷ lệ che phủ rừng cả nước đã tăng từ 27% năm 1990 lên hơn 42% hiện nay, trở thành một trong những điểm sáng trong khu vực Đông Nam Á, góp phần tăng cường hấp thụ các-bon giúp Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu. Nguồn lợi thủy sản ở những nơi áp dụng đồng quản lý nghề cá dần được khôi phục, giảm thiểu xung đột ngư trường. Phong trào giảm thiểu rác thải nhựa cũng lan tỏa mạnh mẽ từ Trung ương đến địa phương, góp phần hình thành lối sống xanh trong cộng đồng đô thị. Trong lĩnh vực nông nghiệp, hàng nghìn sản phẩm OCOP (mỗi xã một sản phẩm) cùng hàng trăm hợp tác xã sản xuất hữu cơ đã được hình thành, tạo ra chuỗi giá trị mới, nâng cao thu nhập cho người dân, thúc đẩy kinh tế xanh và hình thành các mô hình sản xuất tuần hoàn thân thiện với môi trường, mang đến hướng đi mới cho nông thôn Việt Nam.
Phát triển dựa trên cộng đồng không chỉ dừng ở việc duy trì sinh kế tại chỗ, mà còn mở ra cơ hội kết nối rộng lớn hơn với thị trường và doanh nghiệp. Tính đến năm 2025, Việt Nam có hơn 800 hợp tác xã nông nghiệp, trong đó gần 300 hợp tác xã được thành lập mới trong vòng 5 năm trở lại đây, với nhiều mô hình hoạt động hiệu quả và doanh thu bình quân đạt trên 5 tỷ đồng/năm. Sự kết nối này giúp cộng đồng tiếp cận thị trường ổn định, nâng cao giá trị sản phẩm thông qua chứng nhận xanh, truy xuất nguồn gốc và tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời, doanh nghiệp cũng được hưởng lợi khi có nguồn cung bền vững, đáp ứng xu hướng tiêu dùng toàn cầu đang ưu tiên sản phẩm thân thiện môi trường. Quá trình hình thành các chuỗi giá trị xanh dựa trên sự hợp tác chặt chẽ giữa cộng đồng và doanh nghiệp đã trở thành một kênh kết nối lợi ích hài hòa, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa khuyến khích sản xuất tiêu dùng bền vững, đồng thời bảo vệ tài nguyên thiên nhiên cho các thế hệ tương lai, góp phần vào phát triển KT - XH theo hướng xanh và bền vững.
Đặc biệt, vai trò của phụ nữ và thanh niên ngày càng nổi bật. Phụ nữ nông thôn không chỉ tham gia sản xuất mà còn đứng ra thành lập và quản lý nhiều hợp tác xã nông nghiệp hữu cơ. Thông qua các khoá tập huấn kỹ thuật, xây dựng thương hiệu, đưa sản phẩm vào siêu thị và bán hàng qua thương mại điện tử, nhiều sản phẩm của họ đã có mặt trên thị trường trong nước và quốc tế, tạo ra các mô hình do phụ nữ, thanh niên làm chủ, phát huy tiềm năng của thế hệ trẻ trong phát triển kinh tế xanh. Điều này giúp nâng cao vị thế phụ nữ trong gia đình và cộng đồng, đồng thời khẳng định vai trò giới trong phát triển bền vững.
Thanh niên với nguồn năng lượng sáng tạo và khát vọng khởi nghiệp ngày càng tham gia mạnh mẽ vào khởi nghiệp xanh - từ giải pháp thay thế nhựa, ứng dụng số trong nông nghiệp, đến mô hình kinh tế tuần hoàn quy mô nhỏ. Họ mang đến năng lượng mới, góp phần lan tỏa lối sống xanh tới cộng đồng. Khi phụ nữ và thanh niên cùng tham gia, cộng đồng trở nên năng động và bền vững hơn.
CÁC MÔ HÌNH CỘNG ĐỒNG TIÊU BIỂU VÀ SỰ PHỐI HỢP ĐA BÊN
Các mục tiêu phát triển bền vững gắn với bảo vệ tài nguyên thiên nhiên đã được hiện thực hóa qua nhiều mô hình, chương trình, dự án thành công thông qua cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ, cộng đồng dân cư, doanh nghiệp và các tổ chức phát triển, trong đó có Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc.
Trên nền tảng chính sách vững chắc đó, Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc đã đồng hành cùng Chính phủ Việt Nam để đưa các chủ trương lớn đi vào thực tiễn, biến chính sách thành những kết quả cụ thể và thiết thực cho cộng đồng. Ví dụ điển hình là dự án iLandscape, đang triển khai tại tỉnh Lâm Đồng và Đắk Nông (nay là tỉnh Lâm Đồng), tập trung vào quản lý cảnh quan bền vững thông qua cách tiếp cận địa bàn không gây mất rừng. Với nguồn ngân sách 5 triệu Euro từ Liên minh châu Âu và sự hỗ trợ kỹ thuật từ nhiều tổ chức quốc tế, dự án đã xây dựng các mô hình hợp tác công tư cấp huyện (PPI) tại 4 huyện trọng điểm, tạo khuôn khổ thảo luận thường xuyên giữa các bên liên quan gồm chính quyền địa phương, hợp tác xã, các doanh nghiệp sản xuất và chế biến nông sản, cùng các tổ chức cộng đồng. Nhờ đó, từ năm 2022 đến nay đã bảo vệ được 25.000 héc-ta rừng tự nhiên, cải thiện sinh kế cho hơn 30.000 nông dân, trong đó có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số và nữ giới, hướng tới phát triển bền vững và giảm phát thải khí nhà kính. Mô hình này đã minh chứng sức mạnh của việc phối hợp liên ngành, tạo hành lang pháp lý và kỹ thuật vững chắc để cộng đồng chủ động tham gia quản lý tài nguyên rừng gắn với sinh kế bền vững.
Ở khu vực ven biển miền Trung, dự án “Tăng cường khả năng chống chịu với những tác động của biến đổi khí hậu cho các cộng đồng dễ bị tổn thương ven biển Việt Nam” do Quỹ Khí hậu Xanh tài trợ, đã giúp trồng mới và phục hồi hàng nghìn héc-ta rừng ngập mặn tại các tỉnh miền Trung và Đồng bằng sông Cửu Long. Những cánh rừng này trở thành “lá chắn xanh” chống xói lở và giảm thiệt hại do bão, đồng thời tạo môi trường sinh thái cho nuôi trồng thủy sản. Người dân tham gia nuôi tôm sinh thái trong vùng rừng ngập mặn có thể bán sản phẩm với giá cao hơn nhờ chứng nhận bền vững. Cùng với đó, gần 5.000 ngôi nhà an toàn chống chịu bão lụt đã được xây dựng, giúp các hộ nghèo yên tâm sinh sống, bảo đảm ổn định cuộc sống và giảm tổn thất trong mùa mưa bão.
Tại vùng khô hạn Nam Trung Bộ, dự án “Tăng cường khả năng chống chịu của sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ trước tình trạng mất an ninh nguồn nước do biến đổi khí hậu ở khu vực Tây Nguyên và Duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam”. Dự án Thích ứng với biến đổi khí hậu nông nghiệp quy mô nhỏ do Quỹ Khí hậu Xanh tài trợ cũng đã và đang hỗ trợ hàng nghìn hộ nông dân xây dựng hệ thống hàng nghìn ao chứa nước chống chịu với biến đổi khí hậu, áp dụng hệ thống tưới nhỏ giọt và sử dụng giống cây chịu hạn. Những giải pháp này không chỉ giúp người dân duy trì sản xuất trong điều kiện khắc nghiệt, mà còn tăng cường chia sẻ lợi ích từ các nguồn nước sẵn có và mưa, đồng thời tăng cường đoàn kết cộng đồng.
Ngoài ra, Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc cũng đã hỗ trợ rất nhiều các sáng kiến cộng đồng trong biến đổi khí hậu, thông qua chương trình tài trợ các dự án nhỏ của Quỹ Môi trường toàn cầu (SGP). Đây là một chương trình lâu đời, được triển khai tại Việt Nam từ năm 1999, tập trung vào nhiều lĩnh vực như bảo vệ, thích ứng với biến đổi khí hậu, quản lý rác thải, cải thiện sinh kế, giảm nghèo, thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ, người dân tộc thiểu số, cùng các cộng đồng địa phương. Tính đến tháng 6/2025, SGP đã hỗ trợ hơn 200 dự án ở 45 tỉnh/thành phố và 130 xã trên toàn quốc, tạo ra những tác động tích cực và bền vững cho môi trường và cộng đồng.
SGP hỗ trợ thúc đẩy nhiều cộng đồng tham gia đồng quản lý bảo vệ nguồn lợi thủy sản tại nhiều tỉnh như Bình Định (nay là tỉnh Gia Lai), Quảng Ngãi, Phú Yên (nay là tỉnh Đắk Lắk), Bình Thuận (nay là tỉnh Lâm Đồng), Bến Tre (nay là tỉnh Vĩnh Long), Đồng Tháp và Cà Mau. Các cộng đồng bảo vệ nguồn lợi thủy sản được hình thành, củng cố và tăng cường, nhiều khu vực đồng quản lý ven biển, ven vịnh đã được công nhận và giao quyền cho cộng đồng giúp cho bảo vệ nguồn lợi thủy sản bền vững, góp phần bảo vệ hệ sinh thái ven bờ và cải thiện sinh kế cho người dân, giảm đánh cá bất hợp pháp.
SGP cũng hỗ trợ cộng đồng bảo vệ san hô tại vịnh Quy Nhơn (Gia Lai), Khu Bảo tồn biển Hòn Cau (Lâm Đồng), Hòn Yến (Đắk Lắk) và Gành Yến (Quảng Ngãi). Mô hình tại vịnh Quy Nhơn (với 42,6 héc-ta được trao quyền đồng quản lý bảo vệ san hô) đã chứng kiến các kết quả tích cực, như việc duy trì tỉ lệ sống của rạn san hô đạt 75%, sự trở lại làm tổ và đẻ trứng của nhiều cá thể rùa biển quý, hiếm sau nhiều năm vắng bóng và việc vận hành các mô hình cộng đồng tham gia công tác bảo tồn và phát triển du lịch bền vững hơn.
Việc bảo vệ rừng cũng được chú trọng tại nhiều khu vực như: Khu dự trữ sinh quyển miền Tây Nghệ An, Khu dự trữ sinh quyển Hội An - Cù Lao Chàm, Hà Giang (nay là tỉnh Tuyên Quang), Đà Nẵng, Sơn La và Đắk Lắk. Điển hình là việc thúc đẩy giao đất giao rừng tại huyện Kỳ Sơn, Quế Phong hay việc trồng mới và phục hồi rừng Mét tại huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An. SGP còn thúc đẩy sáng kiến trồng cây bản địa để tạo dải băng xanh phòng chống cháy rừng ở thành phố Huế, một sáng kiến được chính quyền địa phương đánh giá cao và tiếp tục được nhân rộng.
Đặc biệt, SGP thúc đẩy tăng cường sinh kế cho người dân thông qua đa dạng loại hình sinh kế, đa dạng hóa sản phẩm, xây dựng sản phẩm theo chuỗi giá trị như phát triển cây dược liệu dưới tán rừng ở Khu dự trữ sinh quyển Tây Nghệ An, thuốc người Dao ở Nậm Đăm, Hà Giang và nhiều mô hình khác ở Bắc Kạn, Thanh Hóa, hay phát triển chuỗi giá trị từ cây Mét (tre). Phát huy trên thế mạnh đặc thù của từng địa phương, một số dự án đã thúc đẩy mô hình du lịch cộng đồng tại Kỳ Sơn, Hòa Bắc (Đà Nẵng), Sơn La, Cẩm Thanh, Cẩm Kim, Cù Lao Chàm (Hội An), vịnh Quy Nhơn (Gia Lai), Bình Sơn (Quảng Ngãi)... Các mô hình này mang lại lợi ích kép, vừa vun đắp tình yêu quê hương, bảo tồn đa dạng sinh học các hệ sinh thái và phát huy bản sắc văn hóa, vừa tạo thêm sinh kế cho cộng đồng.
Bên cạnh đó, SGP cũng hỗ trợ cộng đồng bảo vệ môi trường thông qua các dự án về quản lý tổng hợp rác và giảm rác thải nhựa với nền tảng là việc phân loại rác tại nguồn và thí điểm mô hình kinh tế tuần hoàn từ cấp hộ gia đình, trường học. Các dự án này được triển khai ở 20 xã thuộc 10 tỉnh, thành phố bao gồm: Hội An (nay thuộc thành phố Đà Nẵng), Bình Dương (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh), Hạ Long (Quảng Ninh), Quy Nhơn (nay thuộc tỉnh Gia Lai), Bình Thuận (nay thuộc tỉnh Lâm Đồng), Phú Yên (nay thuộc tỉnh Đắk Lắk) và Huế. Dự án thí điểm tại Hạ Long đã giúp thu gom và phân loại 1.000 tấn rác thải nhựa thu gom từ các hộ gia đình, tàu cá và tàu du lịch.
Trước tác động của biến đổi khí hậu, SGP hỗ trợ các sáng kiến sinh kế thích ứng, điển hình là việc thí điểm và nhân rộng mô hình lúa - tôm trong hệ sinh thái nước lợ tại Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau), hay mô hình chuỗi liên kết lạc tại Bình Định (nay là Gia Lai) - Phú Yên (nay là Đắk Lắk) - Quảng Trị... Các chương trình này đã hỗ trợ cho các cộng đồng ven biển Nam Trung Bộ cũng như Đồng bằng sông Cửu Long chống chịu tốt hơn trong bối cảnh biến đổi khí hậu gia tăng.
Các mô hình cộng đồng không chỉ dừng lại ở hiệu quả kinh tế và môi trường, mà còn tạo ra những tác động xã hội tích cực. Ở miền núi, việc cùng nhau bảo vệ rừng và quản lý nước giúp tăng tính đoàn kết và giảm xung đột. Ở ven biển, các tổ đồng quản lý nghề cá đã hình thành cơ chế tự giám sát, hạn chế khai thác hủy diệt, qua đó giữ gìn ngư trường chung. Ở đô thị, thói quen phân loại rác và giảm sử dụng nhựa dần trở thành nếp sống mới, góp phần xây dựng môi trường văn minh, hiện đại.
Ngoài ra, nhiều giá trị văn hóa bản địa được khôi phục và gắn với phát triển kinh tế. Cộng đồng không chỉ duy trì được các làng nghề truyền thống, kiến thức bản địa về dược liệu, lễ hội dân gian được khai thác làm sản phẩm du lịch sinh thái, giúp cộng đồng vừa giữ gìn bản sắc, vừa có thêm thu nhập. Điều này cho thấy phát huy vai trò cộng đồng không chỉ là giải pháp kinh tế - môi trường, mà còn là cách duy trì bản sắc văn hóa dân tộc.
Ở Hòn Yến (tỉnh Đắk Lắk), ngư dân không chỉ đưa khách tham quan rạn san hô mà còn kể cho họ nghe truyền thuyết làng chài, dạy họ kéo lưới, nấu món ăn truyền thống. Du khách không chỉ ngắm cảnh đẹp, mà còn hiểu thêm về đời sống văn hóa địa phương. Đây chính là cách cộng đồng vừa bảo tồn thiên nhiên, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc.
Từ các mô hình cộng đồng tiêu biểu nêu trên, có thể rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quan trọng. Trước hết, mọi sáng kiến đều cần xuất phát từ nhu cầu thực sự của cộng đồng, được cộng đồng bàn bạc, thống nhất và cùng tham gia ngay từ khâu thiết kế. Khi người dân cảm thấy mô hình gắn với lợi ích trực tiếp của mình, họ sẽ có động lực duy trì và phát triển sau khi dự án kết thúc.
Thứ hai, việc trao quyền rõ ràng và minh bạch là yếu tố quyết định. Ở nhiều dự án, cộng đồng chỉ thực sự gắn bó khi được giao quyền quản lý rừng, nguồn lợi thủy sản, hay được trực tiếp quản lý quỹ tài chính nhỏ. Quyền đi đôi với trách nhiệm đã giúp họ chủ động hơn trong giám sát, chia sẻ lợi ích và xử lý xung đột.
Thứ ba, hỗ trợ kỹ thuật và nâng cao năng lực cho cộng đồng là điều kiện không thể thiếu. Nhiều hợp tác xã và nhóm cộng đồng chỉ thực sự thành công khi được tập huấn về kỹ thuật sản xuất bền vững, quản trị nhóm, truy xuất nguồn gốc sản phẩm và tiếp cận thị trường.
Thứ tư, sự phối hợp đa bên tạo nên sức mạnh bền vững. Các mô hình hiệu quả đều có sự vào cuộc đồng bộ của chính quyền địa phương, các đoàn thể, doanh nghiệp và tổ chức phát triển. Doanh nghiệp tham gia chuỗi giá trị, chính quyền hỗ trợ pháp lý, tổ chức quốc tế bổ trợ tài chính kỹ thuật, cộng đồng trực tiếp hành động. Sự phối hợp này giúp các mô hình tránh tình trạng rời rạc, manh mún.
Cuối cùng, cần phải thiết lập được cơ chế tài chính ổn định và lâu dài ngay tại cấp cộng đồng. Thực tế cho thấy, những nơi có nguồn quỹ cộng đồng rõ ràng từ chi trả dịch vụ môi trường rừng, chia sẻ lợi nhuận trong khai thác thủy sản, hay hoạt động du lịch sinh thái thì các mô hình thường được duy trì bền vững hơn. Điều này khẳng định rằng, để nhân rộng và phát triển lâu dài các mô hình dựa vào cộng đồng, không chỉ cần trao quyền và nâng cao năng lực, mà còn phải bảo đảm nguồn lực tài chính ổn định để cộng đồng có thể chủ động vận hành, tái đầu tư và phát triển.
THÁCH THỨC, TỒN TẠI
Dù đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể, song nhiều thách thức vẫn còn tồn tại. Khung chính sách hiện nay vẫn còn phân tán và thiếu sự liên kết, trong khi nhiều mô hình thí điểm thành công lại gặp khó khăn trong việc duy trì hoạt động sau khi nguồn tài trợ bên ngoài kết thúc. Các cơ chế khuyến khích kinh tế - như chi trả dịch vụ môi trường rừng - vẫn chưa đủ mạnh để thúc đẩy sự thay đổi hành vi lâu dài trong cộng đồng. Tại các vùng sâu, vùng xa và khu vực đồng bào dân tộc thiểu số, thiếu vốn, năng lực kỹ thuật còn hạn chế cùng với tác động ngày càng nghiêm trọng của biến đổi khí hậu vẫn tiếp tục đe dọa sinh kế của người dân. Để phát triển bền vững, các hoạt động thân thiện với môi trường cần trở thành một phần trong đời sống hằng ngày, chứ không chỉ tồn tại trong chu kỳ của các dự án ngắn hạn.
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ TỪ THỰC TIỄN TRIỂN KHAI
Từ thực tiễn, có thể rút ra một số bài học quan trọng. Khi cộng đồng được trao quyền và hưởng lợi trực tiếp, họ sẽ có động lực mạnh mẽ để bảo vệ tài nguyên. Sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, cộng đồng, doanh nghiệp và tổ chức xã hội tạo ra sức mạnh tổng hợp. Việc phát huy tri thức bản địa, vai trò của phụ nữ và thanh niên làm cho mô hình thêm bền vững.
Để cộng đồng thực sự trở thành trung tâm của phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện chính sách và tạo thêm động lực bền vững cho người dân. Trước hết, cần củng cố khung pháp lý để cộng đồng được trao quyền rõ ràng hơn trong quản lý tài nguyên, từ rừng, biển cho tới chất thải rắn đô thị. Quyền lợi kinh tế của người dân phải gắn trực tiếp với kết quả bảo vệ môi trường, thông qua cơ chế chi trả dịch vụ hệ sinh thái, tín chỉ các-bon, tín dụng xanh hoặc các mô hình đồng quản lý bảo vệ tài nguyên, nguồn lợi thủy sản, hợp tác công - tư với doanh nghiệp tư nhân.
Song song với đó, cần tăng cường hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật để cộng đồng có khả năng duy trì mô hình sau khi các dự án quốc tế kết thúc. Các quỹ môi trường địa phương, các gói tín dụng vi mô và cơ chế bảo lãnh tín dụng có thể giúp hộ gia đình, hợp tác xã và nhóm cộng đồng đầu tư vào sản xuất xanh, tuần hoàn. Việc nâng cao năng lực cộng đồng cũng đặc biệt quan trọng: Không chỉ dừng ở tập huấn kỹ thuật canh tác hay xử lý rác, mà còn mở rộng sang kỹ năng quản lý, tiếp thị sản phẩm, thương mại điện tử và ứng dụng chuyển đổi xanh, chuyển đổi số.
Truyền thông và giáo dục cần được coi là đòn bẩy để thay đổi thói quen xã hội. Nếu ở nông thôn, truyền thông tập trung vào gìn giữ rừng, nước, đất, thì ở đô thị nên nhấn mạnh giảm sử dụng nhựa, phân loại rác, lối sống xanh. Việc tôn vinh, nhân rộng những mô hình cộng đồng tiêu biểu sẽ tạo ra hiệu ứng lan tỏa, khiến nhiều địa phương khác noi theo.
Cuối cùng, Việt Nam cũng nên đẩy mạnh hợp tác quốc tế và khu vực để học hỏi kinh nghiệm quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng, đồng thời tiếp cận thêm nguồn tài chính khí hậu, công nghệ sạch và thị trường tiêu thụ sản phẩm xanh. Khi Chính phủ kiến tạo chính sách, cộng đồng tích cực hành động và các tổ chức phát triển như Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc tiếp tục đồng hành, thì sự gắn kết ba bên này sẽ tạo nên nền tảng vững chắc giúp Việt Nam xây dựng một nền kinh tế xanh, tuần hoàn và thích ứng với biến đổi khí hậu.
HỖ TRỢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA LIÊN HỢP QUỐC TRONG THỜI GIAN TỚI
Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc cam kết tiếp tục hỗ trợ tăng cường vai trò của cộng đồng trong phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu thông qua các chương trình, dự án thực hiện tại các địa phương trong cả nước.
Một trong những dự án đang triển khai là dự án “Cộng đồng ven biển thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu tại Việt Nam” (2024 - 2030) do Chính phủ Canada tài trợ thông qua Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc nhằm cải thiện khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu của các cộng đồng ven biển dễ bị tổn thương và làm giàu đa dạng sinh học biển và ven biển. Dự án đặt trọng tâm vào các tỉnh, thành ven biển như Huế, Gia Lai và Cần Thơ, vừa hỗ trợ cải thiện sinh kế cho các cộng đồng dân cư - đặc biệt nhấn mạnh vào phụ nữ và các tổ chức, doanh nghiệp do phụ nữ lãnh đạo, vừa đẩy mạnh phục hồi hệ sinh thái và đa dạng sinh học (như rừng ngập mặn, rạn san hô và cỏ biển), quản lý rác thải nhựa trên biển. Dự án đặt mục tiêu đem lại lợi ích cho ít nhất 20.000 người hưởng lợi trực tiếp, 200.000 người hưởng lợi gián tiếp, cải thiện đa dạng sinh học cho trên 10.000 héc-ta diện tích (trong đó có Khu Bảo tồn biển vịnh Quy Nhơn tại Gia Lai và Khu Bảo tồn biển Bắc Hải Vân tại Huế) và hấp thụ trên 400.000 tấn CO2 sau 20 năm.
LỜI KẾT
Với truyền thống đoàn kết cộng đồng, chính sách đối ngoại cởi mở, cùng phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, các quốc gia đều là bạn, lợi ích hài hòa, rủi ro cùng chia sẻ, Việt Nam đã và đang xây dựng nền tảng vững chắc để cộng đồng thực sự trở thành trung tâm của quá trình phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Đây chính là tiền đề quan trọng để hiện thực hóa khát vọng phát triển bền vững, hài hòa giữa con người và thiên nhiên trong kỷ nguyên hội nhập và vươn mình mạnh mẽ của dân tộc.
Với sự hỗ trợ lâu dài từ Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc, các cộng đồng tại Việt Nam có thể tiếp tục giữ vai trò là nền tảng cho một nền kinh tế xanh và bao trùm - nơi sự phát triển thịnh vượng gắn liền với việc bảo tồn thiên nhiên.
Chương trình Phát triển Liên hợp quốc