Bài 2: Gỡ điểm nghẽn - Mở đường cho sản xuất trồng trọt giảm phát thải đi vào thực tiễn

06/08/2025

TN&MTĐề án sản xuất trồng trọt giảm phát thải được Bộ Nông nghiệp và Môi trường trình Hội nghị tham vấn ngày 30/7/2025 đã nhận được đa chiều đồng thuận từ các cấp quản lý, địa phương, doanh nghiệp và tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, để biến chủ trương thành hành động cụ thể trên đồng ruộng, vẫn còn đó ba rào cản lớn: thiếu cơ chế tài chính rõ ràng, dữ liệu phát thải thiếu đồng bộ và năng lực thực thi tại cấp cơ sở vẫn yếu. Bài viết này phân tích các điểm nghẽn đó và đề xuất các điều kiện cần thiết để đề án đi vào thực tế với hiệu quả cao.

Giữa sắc vàng rực rỡ của mùa lúa chín, người nông dân miệt mài gặt hái thành quả sau những tháng ngày “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Ánh nắng chan hòa, bầu trời xanh ngắt như tôn thêm vẻ đẹp bình dị, đầy sức sống của đồng quê Việt Nam – nơi khởi nguồn của bao câu chuyện về hạt gạo, về lao động và niềm tin no ấm.

Rào cản 1: Thiếu cơ chế tài chính chuyên biệt và khả thi

Một trong những nút thắt lớn nhất trong quá trình triển khai các mô hình sản xuất trồng trọt giảm phát thải hiện nay chính là sự thiếu hụt của một cơ chế tài chính chuyên biệt, ổn định và khả thi. Dù chủ trương xã hội hóa nguồn lực, lồng ghép ngân sách Nhà nước với nguồn tài chính quốc tế, tín dụng xanh và vốn tư nhân đã được đề cập từ nhiều năm qua, song đến nay vẫn chưa có một cấu trúc tài chính đủ mạnh để hỗ trợ nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp tham gia sâu vào chuỗi giá trị nông nghiệp carbon thấp.

Tại Hội nghị tham vấn ngày 30/7/2025, một số đại biểu khu vực các tỉnh phía Nam, nơi chịu ảnh hưởng rõ rệt của biến đổi khí hậu, đã thẳng thắn chỉ ra: khi chưa có cơ chế hỗ trợ đầu tư ban đầu hoặc tín dụng ưu đãi đủ hấp dẫn, việc yêu cầu nông dân tự thay đổi thói quen canh tác truyền thống là điều rất khó khả thi. Chi phí cho giống lúa chất lượng cao, thiết bị canh tác thông minh, hệ thống tưới tiết kiệm nước, và đặc biệt là hệ thống đo đếm - giám sát phát thải đều ở mức cao, vượt quá khả năng đầu tư của phần lớn nông hộ.

Mặt khác, đại diện một số tổ chức phát triển quốc tế như GIZ, FAO cũng nhấn mạnh rằng các định chế tài chính khí hậu toàn cầu (như Quỹ Khí hậu Xanh - GCF) hay các chương trình tài trợ quốc tế (như JICA, AFD) hoàn toàn có thể hỗ trợ Việt Nam hàng trăm triệu USD để triển khai các mô hình nông nghiệp carbon thấp. Tuy nhiên, để tiếp cận được các nguồn vốn này, Việt Nam cần xây dựng các đề án, dự án cụ thể, có cơ chế phối hợp minh bạch và cơ sở dữ liệu đủ tin cậy để chứng minh hiệu quả giảm phát thải. Đó chính là điều mà hiện nay chưa được chuẩn hóa tại hầu hết các địa phương.

Trong bối cảnh ngân sách Nhà nước còn hạn chế và nguồn vốn ODA ngày càng có điều kiện khắt khe hơn, các ý kiến tại hội nghị cho rằng Việt Nam cần sớm xây dựng và ban hành một Khung chính sách tài chính khí hậu trong nông nghiệp, trong đó có các nội dung then chốt như: (1) Hình thành Quỹ hỗ trợ nông nghiệp phát thải thấp, phối hợp giữa ngân sách công, tín dụng xanh và vốn quốc tế; (2) Ban hành các gói tín dụng ưu đãi riêng cho nông hộ và hợp tác xã canh tác theo hướng giảm phát thải, với thời hạn và lãi suất phù hợp; (3) Cho phép sử dụng các công cụ tài chính mới như chi trả dựa trên kết quả giảm phát thải, tín chỉ carbon, bảo hiểm rủi ro khí hậu, làm đòn bẩy khuyến khích doanh nghiệp đầu tư; (4) Bổ sung nhóm ngành “nông nghiệp carbon thấp” vào danh mục tiếp cận vốn trong Chiến lược quốc gia về tài chính xanh và định hướng ngân hàng xanh.

Ngoài ra, sự thiếu đồng bộ giữa các cấp, các ngành cũng khiến dòng tiền tài chính khí hậu chưa chảy đến đúng nơi, đúng người. Một số địa phương chia sẻ rằng, họ từng đề xuất bố trí ngân sách hoặc xin hỗ trợ từ các quỹ quốc tế, nhưng lại gặp vướng mắc về quy trình thẩm định, hồ sơ phức tạp, thậm chí chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể từ trung ương.

Từ những phân tích trên, có thể thấy, nếu không gỡ được “nút thắt tài chính”, việc hiện thực hóa mục tiêu sản xuất trồng trọt giảm phát thải, dù đã có lộ trình, giải pháp kỹ thuật và đồng thuận xã hội vẫn chỉ dừng ở chủ trương và thí điểm cục bộ. Một khung thể chế tài chính đủ độ mở, tính đến đặc thù của ngành nông nghiệp và hành vi của nông hộ, là điều kiện tiên quyết để biến Đề án thành hiện thực trong giai đoạn 2025-2030.

Rào cản 2: Thiếu dữ liệu phát thải đồng bộ, MRV chưa vận hành

Thiếu hệ thống kiểm kê và giám sát chuẩn quốc tế. Đề án đề xuất xây dựng cơ sở dữ liệu phát thải phân theo cây trồng và vùng sinh thái, kết nối với hệ thống đăng ký quốc gia. Tuy nhiên, hiện nay chưa có triển khai bài bản cấp huyện (trước đây) nay là cấp xã, nên tạo sự thiếu minh bạch, khó đánh giá tiến độ và hiệu quả thực tế của mô hình giảm phát thải

Chưa phát triển MRV (một hệ thống được sử dụng để theo dõi, giám sát, và đánh giá các hoạt động giảm thiểu phát thải khí nhà kính) tại cấp cơ sở. Mô hình MRV (Monitoring, Reporting, Verification) dù là yêu cầu tiên quyết để chứng nhận tín chỉ carbon, nhưng ở Việt Nam, sản xuất nhỏ lẻ, quy mô manh mún khiến việc kiểm toán phát thải trở nên khó khăn. Đề án cần giải pháp số hóa và cảm biến theo khu vực để thu thập dữ liệu thời gian thực

Rào cản 3: Năng lực triển khai tại địa phương còn yếu

Thiếu cán bộ kỹ thuật và khuyến nông được đào tạo bài bản. Đề án đặt mục tiêu đào tạo ít nhất 3.000 cán bộ kỹ thuật cơ sở, khuyến nông, nông dân, doanh nghiệp trên toàn quốc. Tuy nhiên, trước đó nhiều vùng chưa có đội ngũ chuyên trách về kỹ thuật giảm phát thải và việc tập huấn chưa đủ để triển khai đồng bộ các mô hình như SSNM (Bón phân theo vùng chuyên biệt) hoặc canh tác hữu cơ.

Thiếu hướng dẫn kỹ thuật phù hợp vùng sinh thái. Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên hay miền núi phía Bắc có điều kiện canh tác, cây trồng và văn hóa khác nhau. Một số địa phương đề xuất không áp dụng một loạt các chỉ tiêu kỹ thuật trên mọi vùng, cần Bộ Nông nghiệp và Môi trường ban hành tiêu chí linh hoạt để địa phương thích ứng phù hợp - đây là yếu tố có thể quyết định sự thành công của mô hình giảm phát thải nhưng giữ sinh kế nông dân.

Máy gặt đập liên hợp nhịp nhàng thu hoạch lúa trên cánh đồng rộng lớn, trải dài sắc vàng óng ả - hình ảnh tiêu biểu cho sự chuyển mình mạnh mẽ của nông nghiệp Việt Nam theo hướng hiện đại, cơ giới hóa. Những luống lúa gọn gàng được thu hoạch không chỉ cho thấy hiệu quả sản xuất tăng cao, mà còn phản ánh tư duy đổi mới trong tổ chức sản xuất, ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào đồng ruộng.

Điều kiện cần để vượt những rào cản

Xây dựng hành lang pháp lý và chính sách toàn diện: Soạn thảo hướng dẫn triển khai gắn với Luật Trồng trọt, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đất đai; Có chính sách ưu đãi tín dụng xanh, hỗ trợ đầu tư công nghệ giảm phát thải và cải thiện giá mua bã mía năng lượng tái tạo như Lam Sơn đã đề xuất

Triển khai MRV và Hạ tầng dữ liệu vùng sinh thái. Thiết lập các mô hình thí điểm cảm biến, số hóa tại 15 vùng sinh thái; thu thập dữ liệu phát thải theo nhóm cây trồng chính, hỗ trợ tích hợp vào hệ thống quốc gia. Các mô hình thí điểm tín chỉ carbon cần được chuẩn hóa, kiểm chứng và mở rộng hiệu quả càng sớm càng tốt.

Phát triển lực lượng khuyến nông chuyên trách: Mỗi xã đặt mục tiêu ít nhất 1 cán bộ tập huấn chuyên sâu về kỹ thuật như AWD, SRI, phân vi sinh, tưới tiết kiệm. Khuyến nông chuyển đổi từ vai trò truyền tải lý thuyết sang người đồng hành trực tiếp trong vụ sản xuất, truyền thông về lợi ích về kinh tế và môi trường

Doanh nghiệp tham gia là đồng kiến tạo. Doanh nghiệp cần tham gia từ giai đoạn thiết kế mô hình, kiểm soát đầu vào - đầu ra, thu mua và thương mại hóa sản phẩm phát thải thấp. Cụ thể như chương trình của Mía đường Lam Sơn đã tự xây dựng mô hình giảm phát thải, kết nối tín dụng và hợp đồng tiêu thụ sản phẩm xanh.

Nếu không hành động sớm sẽ bị lỡ nhịp hội nhập

Thiếu các điều kiện trên sẽ khiến nông sản Việt bị loại khỏi thị trường cao cấp EU, Nhật Bản, Mỹ đang yêu cầu các chứng nhận như carbon footprint hay carbon label. Nếu dòng sản phẩm trồng trọt không đáp ứng được, sẽ không thể xuất khẩu, hoặc chỉ xuất khẩu với giá thấp hơn 10-25% so với mặt hàng phát thải thấp.

Đề án cần trở thành cơ hội cho người nông dân và doanh nghiệp. Nếu triển khai kịp thời và hiệu quả, Đề án có thể giúp giảm 8-11 triệu tấn CO₂eq mỗi năm, tạo việc làm, tăng thu nhập, giữ chân lực lượng lao động nông thôn, đặc biệt là phụ nữ và thanh niên vùng quê.

Giảm phát thải trong trồng trọt không chỉ là một sáng kiến kỹ thuật mà là một chiến lược hệ thống, liên ngành giữa chính sách, khoa học - kỹ thuật và thị trường. Ba rào cản lớn hiện nay gồm cơ chế tài chính, dữ liệu MRV và năng lực triển khai tại địa phương rõ ràng cần được tháo gỡ để đề án chuyển từ giấy tờ sang thực tế. Điều kiện để thành công là sự gắn kết giữa Nhà nước - địa phương - doanh nghiệp và người nông dân, dưới khung pháp lý đủ mạnh, công cụ đo lường hiện đại và nguồn lực tài chính thích hợp.

Hồng Minh

 

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Nâng cao năng lực phòng, chống thiên tai: Kiện toàn tổ chức, hoàn thiện cơ chế, ứng dụng công nghệ, tăng cường truyền thông

Quyền Bộ trưởng Trần Đức Thắng: Quyết tâm tăng trưởng ngành trên 4%, kim ngạch xuất khẩu cán mốc 70 tỷ USD năm 2025

Tổng Bí thư chứng kiến lễ trao các văn kiện hợp tác Việt Nam-Hàn Quốc

Việt Nam đưa bốn đề xuất hợp tác an ninh lương thực tại APEC

Nông nghiệp

Livestream bán sản phẩm xanh, sư thầy nuôi gần 30 trẻ mồ côi

Ươm mầm sự sống nơi rừng ngập mặn Thái Thụy

Trồng mới 300 cây bần chua tại rừng ngập mặn Hưng Yên

Nâng cao hiệu quả chính quyền địa phương hai cấp trong phòng, chống thiên tai

Tài nguyên

Bài 2: Cắt giảm thủ tục, phân cấp thẩm quyền - Vì một nền quản lý tài nguyên nước hiệu lực, hiệu quả

Giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong cấp phép khoáng sản tại Thanh Hóa

Bài 1: Chủ động điều tiết - Ứng phó khô hạn: Cục Quản lý tài nguyên nước đi đầu bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia

Tối ưu hóa nguồn lực đất đai - Động lực phát triển bền vững cho tỉnh Bắc Ninh mới 

Môi trường

Phát hiện nhiều động vật đặc hữu qua bẫy ảnh tại Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng

Ngăn chặn tình trạng sạt lở ven biển ở Cà Mau

Kiểm lâm Lộc Bình siết chặt quản lý và bảo vệ, phát triển rừng

Lạng Sơn: Kiểm lâm Chi Lăng giữ vững vai trò nòng cốt trong quản lý, bảo vệ và phát triển rừng

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Người gieo mầm hy vọng từ những hạt đậu nhỏ bé

Đào tạo gắn với thị trường lao động: Khoa Tài nguyên và Môi trường (Học viện Nông nghiệp Việt Nam) ký kết MOU với TTG Group

Phân lập và tinh sạch ba hợp chất flavonoid của cao chloroform từ Bí kỳ nam (Hydnophytum formicarum Jack.)

Tưới thông minh - Giải pháp xanh cho vùng hạn mặn Vĩnh Long

Chính sách

Thủ tướng chỉ đạo gỡ vướng quy định pháp luật lĩnh vực khoáng sản, đất đai

Đoàn Thanh niên Bộ NN-MT ra quân vì vùng cao phát triển bền vững

Đơn giản hóa thủ tục hành chính về nông nghiệp và môi trường

Tuân thủ pháp luật trong việc bảo vệ di sản văn hoá đã được công nhận

Phát triển

Hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực lâm nghiệp sau sáp nhập tỉnh và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Nâng cao hiệu quả công tác xây dựng các chương trình/dự án mới

Nâng cao chất lượng xây dựng dự án mới

Ứng dụng dữ liệu lớn trong đánh giá nguồn lợi, dự báo ngư trường và quản lý nghề cá

Diễn đàn

Thời tiết ngày 13/8: Nhiều khu vực trên cả nước chiều tối và đêm mưa dông

Dự báo 5 tỉnh thành chịu ảnh hưởng mạnh nhất của bão Wipha

Thời tiết ngày 12/8: Đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ tiếp tục có nắng nóng, chiều tối mưa dông

Thời tiết ngày 11/8: Bắc Bộ và Trung Bộ giảm nhiệt, chiều tối mưa dông