
Củ riềng và hành trình làm giàu trên đất Thăng Bình
05/08/2025TN&MTTrong khi nhiều vùng nông thôn vẫn đang loay hoay với bài toán “trồng cây gì để thoát nghèo”, thì xã Thăng Bình (trước đây thuộc huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa) đã dần tìm ra hướng đi riêng nhờ sự mạnh dạn thay đổi của một người nông dân dám nghĩ dám làm: ông Trần Thế Xanh, Trưởng thôn Mỹ Quang. Từ quyết định từ bỏ cây mía kém hiệu quả để chuyển sang trồng cây riềng - một loại gia vị quen thuộc nhưng trước nay ít ai xem là cây chủ lực - ông Xanh không chỉ giúp gia đình mình đổi đời mà còn kéo theo hàng chục hộ dân khác thoát nghèo, mở ra một hướng phát triển kinh tế nông thôn bền vững.
Từ cây mía “bạc bẽo” đến cây riềng “đổi đời”
Từng là cây trồng chủ lực ở Thăng Bình, cây mía một thời được ví như “nguồn sống” của nhiều hộ dân. Nhưng thực tế khắc nghiệt dần bào mòn niềm tin của người nông dân vào loại cây này: chi phí đầu tư cao, phụ thuộc thời tiết, giá thu mua bấp bênh, đầu ra thiếu ổn định. Không ít vụ mùa, người trồng mía chỉ thu được chưa đầy 50 triệu đồng/ha, có năm thậm chí lỗ vốn.
Ông Trần Thế Xanh – Trưởng thôn Mỹ Quang (xã Thăng Bình, Thanh Hóa) – chỉ tay về cánh đồng riềng do chính ông và bà con trong thôn cải tạo từ đất trồng mía cũ
Gia đình ông Trần Thế Xanh thôn Mỹ Quang, xã Thăng Bình (trước đây là xã Thăng Thọ, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa) cũng từng gắn bó với cây mía suốt hơn một thập kỷ. “Làm mía cực lắm, mà lời chẳng bao nhiêu. Một ha đất, bao nhiêu công sức, chi phí mà thu chẳng được là bao. Vừa làm vừa nơm nớp lo mùa mất giá”, ông Xanh kể lại.
Không chấp nhận để cái nghèo đeo bám mãi, ông bắt đầu tự tìm tòi, nghiên cứu trên internet, đọc sách nông nghiệp và trực tiếp đến các tỉnh bạn học hỏi mô hình canh tác mới. Tại một vùng trồng rau gia vị ở miền Trung, ông chú ý đến một loại cây có vẻ ngoài bình thường nhưng cho hiệu quả kinh tế cao: cây riềng.
Củ riềng tươi vừa thu hoạch có màu đỏ hồng đẹp mắt, chắc nặng, được thương lái ưa chuộng nhờ chất lượng cao và mùi thơm đặc trưng
Khác với các loại cây trồng khác đòi hỏi nhiều công chăm sóc, cây riềng khá “dễ tính”: ít sâu bệnh, không kén đất, không cần tưới tiêu cầu kỳ, lại có thể thu hoạch quanh năm. Đặc biệt, đây là cây có giá trị sử dụng cao trong chế biến thực phẩm, dược liệu và mỹ phẩm – một thị trường đang phát triển mạnh trong và ngoài nước.
Ngay sau khi về quê, ông Xanh mạnh dạn chuyển đổi toàn bộ 1 ha đất mía sang trồng riềng. Dù ban đầu bị không ít người dị nghị, cho rằng “làm chuyện khác người”, ông vẫn kiên trì theo đuổi lựa chọn của mình. Và thực tế đã chứng minh ông đúng. Chỉ sau một năm, ông thu được gần 70 tấn củ riềng, mang lại doanh thu từ 400 – 500 triệu đồng, cao gấp 8 - 10 lần so với trồng mía. Sau khi trừ chi phí (phân bón, nhân công, tưới tiêu), lợi nhuận ròng vẫn đạt mức 300 triệu đồng/ha – một con số đáng mơ ước với nông dân vùng này.
Ông Xanh bên bụi riềng cao lớn, khỏe mạnh – kết quả của việc chuyển đổi cây trồng thành công và áp dụng kỹ thuật chăm sóc hợp lý
“Trồng mía mười năm không bằng trồng riềng một vụ” – ông Xanh ví von đầy hài hước nhưng cũng phản ánh thực tế sinh động. Và không dừng lại ở việc làm giàu cho riêng mình, ông Xanh còn chủ động vận động bà con trong thôn cùng chuyển đổi cây trồng, phổ biến kinh nghiệm, cung cấp giống, thậm chí giúp bà con tiếp cận thương lái để tiêu thụ sản phẩm.
Chuyển đổi cây trồng – chìa khóa mở cánh cửa giảm nghèo bền vững
Từ mô hình của ông Xanh, phong trào trồng riềng nhanh chóng lan rộng khắp thôn Mỹ Quang và các thôn lân cận. Hàng chục hộ dân đã quyết định chuyển một phần hoặc toàn bộ diện tích đất sang trồng loại cây gia vị này. Trong số đó có anh Nguyễn Bá Quế – một hộ điển hình của sự đổi đời nhờ trồng riềng.
Sau gần một năm trồng, riềng cho thu hoạch với bộ rễ lớn, phát triển tốt trong điều kiện thổ nhưỡng tại Thăng Bình
“Tôi trồng riềng được 2 năm nay, giờ đã có 2 ha cho sản lượng hơn 100 tấn mỗi năm. Sau khi trừ chi phí, gia đình tôi lời gần 700 triệu đồng. Không chỉ đủ ăn mà còn dư để tái đầu tư”, anh Quế cho biết. Không những vậy, mô hình trồng riềng của anh còn tạo việc làm ổn định cho 3 - 4 lao động địa phương, với mức thu nhập 6 - 7 triệu đồng/tháng.
Chung quan điểm đó, bà Mạch Thị Hồng – một hộ dân tại thôn Mỹ Quang chia sẻ: “Cây riềng rất phù hợp với thổ nhưỡng nơi đây, dễ trồng, ít sâu bệnh mà đầu ra lại ổn định. Nhờ trồng riềng, kinh tế gia đình tôi khá lên rõ rệt. Ngoài ra, tôi còn thuê thêm vài lao động địa phương để thu hoạch, làm cỏ – cũng góp phần tạo công ăn việc làm cho bà con xung quanh”.
Thu hoạch riềng tại ruộng: Người nông dân vác từng bó lớn, chuẩn bị mang về sơ chế và đóng gói theo đơn đặt hàng
Bà cho biết, nếu được chính quyền hỗ trợ về giống, kỹ thuật và kết nối tiêu thụ, bà sẵn sàng mở rộng quy mô trồng riềng và khuyến khích các hộ khác cùng tham gia để hình thành vùng nguyên liệu tập trung.
Điều đáng chú ý là cây riềng không chỉ giúp người dân thoát nghèo, mà còn mở ra hướng làm giàu bền vững. Với thị trường tiêu thụ ngày càng rộng mở – từ các công ty chế biến thực phẩm trong nước đến các doanh nghiệp xuất khẩu sang Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Âu – cây riềng đang dần trở thành “vàng đỏ” của nông thôn xứ Thanh.
Bà con trong thôn sơ chế riềng tại nhà: Một ngày làm việc tất bật nhưng vui vẻ khi mùa vụ được giá, đầu ra ổn định
Tuy nhiên, theo ông Xanh, rào cản lớn hiện nay là sản xuất vẫn còn manh mún, thiếu liên kết, quy mô nhỏ lẻ. “Bà con làm tự phát, mạnh ai nấy làm, nên chưa đủ lượng hàng để ký hợp đồng dài hạn với doanh nghiệp lớn. Nếu muốn tiến xa, bắt buộc phải hình thành vùng nguyên liệu tập trung, có tổ nhóm, hợp tác xã và được nhà nước hỗ trợ quy hoạch, hướng dẫn kỹ thuật”, ông nhấn mạnh.
Không chỉ dừng ở vai trò là người tiên phong, ông Trần Thế Xanh còn trở thành “hạt nhân” trong việc kết nối các hộ trồng riềng tại địa phương. Ông cùng một số hộ đang xây dựng tổ nhóm sản xuất, chia sẻ giống tốt, hỗ trợ kỹ thuật trồng và tìm đầu ra ổn định.
Các hộ dân cùng nhau làm sạch, phân loại riềng sau thu hoạch – mô hình tổ nhóm nhỏ giúp tăng hiệu quả lao động và kết nối thị trường
“Bà con mình giờ đã thấy rõ hiệu quả, nhưng để yên tâm đầu tư lớn thì phải có chuỗi liên kết. Nếu có chính quyền đồng hành hỗ trợ quy hoạch vùng trồng, đào tạo kỹ thuật, xây dựng hợp tác xã và kết nối với doanh nghiệp tiêu thụ thì cây riềng hoàn toàn có thể trở thành cây chủ lực xóa đói giảm nghèo tại địa phương”, ông Xanh chia sẻ.
Sản phẩm sau thu hoạch: Riềng được rửa sạch, đóng gói cẩn thận trong các bao lớn, sẵn sàng xuất bán cho các cơ sở chế biến thực phẩm
Tầm nhìn của ông không chỉ dừng ở việc phát triển kinh tế hộ gia đình, mà là tạo dựng một mô hình kinh tế nông thôn kiểu mới: sản xuất theo chuỗi, quy mô tập trung, gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ bền vững. Đây chính là tư duy mà nhiều địa phương đang khát khao tìm kiếm trong quá trình xây dựng nông thôn mới nâng cao.
Hoàng Anh