
Phát huy tiềm năng từ Chi trả Dịch vụ môi trường rừng
22/02/2025TN&MTViệt Nam đã nhận được hơn 41 triệu USD đầu tiên từ Ngân hàng Thế giới (WB) từ chuyển nhượng tín chỉ carbon rừng. Với một quốc gia nhiều tiềm năng về rừng như nước ta, việc trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng không chỉ góp phần quan trọng bảo vệ môi trường sinh thái, chống biến đổi khí hậu,... mà còn mang lại lợi ích kinh tế thiết thực thông qua thị trường tín chỉ carbon.
Một chính sách nhiều lợi ích
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT), chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước nhằm xã hội hóa nghề rừng, nâng cao giá trị gia tăng của rừng; huy động các nguồn lực của xã hội, đặc biệt của các tổ chức, cá nhân được hưởng lợi từ DVMTR vào việc bảo vệ và phát triển rừng. Nghị định số 99/2010/NĐ-CP về Chính sách chi trả DVMTR đã có hiệu lực từ ngày 01/01/2011 đến nay, sau hơn 13 năm triển khai, DVMTR đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, tạo lập nguồn tài chính ngoài ngân sách ổn định, bền vững phục vụ công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng, góp phần cải thiện sinh kế, tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho người làm nghề rừng và sống gắn bó với rừng. Cụ thể, chi trả DVMTR đã góp phần bảo vệ môi trường thông qua diện tích rừng được quản lý, bảo vệ bằng nguồn tiền DVMTR. Tính đến cuối năm 2023, tổng diện tích rừng đưa vào thực hiện chi trả DVMTR là 150.435,51 ha, đạt tỷ lệ 45% so với tổng diện tích quy hoạch 3 loại rừng toàn tỉnh. Qua thực hiện chi trả DVMTR đã góp phần tạo thêm công ăn, việc làm, cải thiện sinh kế cho 2.112 hộ, trong đó có khoảng 90% hộ nhận khoán là đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã miền núi tham gia nhận khoán bảo vệ rừng. Riêng tiền DVMTR hộ gia đình nhận khoán được nhận trong năm bình quân đã được nâng lên và ổn định ở mức 300.000 đồng/ha/năm. Từ việc tham gia nhận khoán bảo vệ rừng, ý thức của người dân về lợi ích của rừng đã được nâng lên, hạn chế việc phá rừng, góp phần phát triển rừng bền vững.
Thực hiện Chính sách chi trả DVMTR đã góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với công tác bảo vệ và phát triển rừng của các cấp chính quyền, các ban ngành và các đơn vị sử dụng, cung ứng DVMTR. Đặc biệt là trong công tác giao khoán quản lý bảo vệ rừng, ngoài việc tăng cường thêm lực lượng quản lý bảo vệ rừng cho các đơn vị chủ rừng, đã tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa cộng đồng dân cư với chủ rừng và chính quyền địa phương, mối liên kết cộng đồng trách nhiệm giữa các hộ, nhóm hộ nhận khoán bảo vệ rừng với chủ rừng là tổ chức nhà nước được tốt và thường xuyên hơn.
Từ việc được nhận nguồn hỗ trợ từ chi trả dịch vụ môi trường rừng hay nguồn từ thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính, đã tạo ra động lực cho cộng đồng tham gia bảo vệ và phát triển rừng tích cực hơn. Một số nơi đã chứng kiến việc các cộng đồng không chỉ ngừng chặt phá rừng mà còn chủ động phát triển các mô hình rừng sản xuất, rừng hỗ trợ sinh kế. Đặc biệt, ở các vùng rừng đầu nguồn, người dân nhận thức được vai trò quan trọng của rừng đối với nguồn nước sinh hoạt và thủy điện, qua đó tham gia tích cực vào công tác bảo vệ rừng.
Theo ông Lê Văn Thanh, Phó Giám đốc Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam cho biết, “Thời gian qua, nhờ chi trả bằng nguồn tiền DVMTR đã góp phần lớn vào công tác bảo vệ môi trường và phát triển rừng của các địa phương. Hàng năm, duy trì hoặc phát triển thêm diện tích rừng đủ điều kiện để đưa vào chi trả bằng nguồn DVMTR. Thực hiện chính sách chi trả DVMTR đã góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với công tác bảo vệ môi trường và phát triển rừng của các cấp chính quyền, các ban ngành và các đơn vị sử dụng, cung ứng DVMTR; đặc biệt là trong công tác giao khoán quản lý bảo vệ rừng”.
Phát huy tiềm năng về chi trả dịch vụ môi trường rừng
Bộ NN&PTNT cho biết, cho đến nay, chi trả DVMTR chủ yếu thực hiện dịch vụ duy trì nguồn nước, bảo vệ đất, chống bồi lắng lòng hồ cho sản xuất thủy điện hoặc một số dịch vụ khác như cung cấp nước sạch, cung cấp nước công nghiệp, du lịch sinh thái ở quy mô nhỏ, chiếm tỷ trọng thấp. Hiện còn nhiều dư địa, tiềm năng lớn cho phát triển dịch vụ môi trường rừng như: Dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các-bon của rừng; giảm phát thải khí nhà kính từ hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý rừng bền vững. Đây là một trong những thuận lợi để định hướng phát triển chi trả DVMTR trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, DVMTR tiếp tục được Chính phủ, bộ, ngành quan tâm và khuyến khích phát triển trong giai đoạn 2021-2030 và là một trong các mục tiêu của Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2021-2030 tầm nhìn đến năm 2050.
Ông Lê Văn Thanh, Phó Giám đốc Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam cho biết, Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam đang tiếp tục đôn đốc, chỉ đạo, hướng dẫn địa phương triển khai chính sách chi trả dịch vụ môi trường theo Nghị định số 156/2018/NĐ-CP, Nghị định số 91/2024/NĐ-CP và thí điểm thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ theo Nghị định số 107/2022/NĐ-CP, bảo đảm thu đúng, thu đủ và chi trả kịp thời, đầy đủ, đúng đối tượng.
Phấn đấu đạt mục tiêu thu tiền dịch vụ môi trường rừng toàn quốc năm 2024 (theo Nghị định số 156/2018/NĐ-CP) là 3.200 tỷ đồng; bảo đảm duy trì gần 7,3 triệu ha rừng trong lưu vực cung ứng dịch vụ môi trường rừng, chiếm 49,24% tổng diện tích rừng của cả nước. Cùng với đó, nghiên cứu, đề xuất điều chỉnh mức chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng đối với cơ sở sản xuất thủy điện và cơ sở sản xuất nước sạch theo quy định tại Nghị định số 156/2018/NĐ-CP. Phối hợp với các bên liên quan thực hiện công tác kiểm tra giám sát, nắm bắt, cập nhật thường xuyên tình hình tổ chức vận hành Quỹ và thực thi chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận thức về các chính sách liên quan.
Từ việc được nhận nguồn hỗ trợ từ chi trả dịch vụ môi trường rừng hay nguồn từ thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính, đã tạo ra động lực cho cộng đồng tham gia bảo vệ và phát triển rừng tích cực hơn. Một số nơi đã chứng kiến việc các cộng đồng không chỉ ngừng chặt phá rừng mà còn chủ động phát triển các mô hình rừng sản xuất, rừng hỗ trợ sinh kế. Đặc biệt, ở các vùng rừng đầu nguồn, người dân nhận thức được vai trò quan trọng của rừng đối với nguồn nước sinh hoạt và thủy điện, qua đó tham gia tích cực vào công tác bảo vệ rừng.
Do đó, nhằm để tiếp tục phát huy tiềm năng từ dịch vụ môi trường rừng, trong thời gian tới, Bộ NN&PTNT sẽ rà soát, sửa đổi, bổ sung quy định tại các nghị định, thông tư hướng dẫn liên quan hoặc ban hành các nghị định, thông tư mới. Trong đó, sẽ tập trung vào mở rộng đối tượng DVMTR đã và đang thực hiện và tổ chức thực hiện các loại hình dịch vụ mới như dịch vụ kinh doanh du lịch sinh thái bên ngoài phạm vi khu rừng nhưng có sử dụng vẻ đẹp cảnh quan do rừng tạo ra; dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các-bon đối với tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh gây phát thải khí nhà kính lớn và bán tín chỉ các-bon ra thị trường thế giới.
Đồng thời, quy định lại cách tính đơn giá bình quân chi trả cho 1 ha rừng đối với tiền thu DVMTR từ các nhà máy thủy điện bậc thang theo hướng tách tiền chi trả đối với loại hình dịch vụ bảo vệ đất, hạn chế xói mòn và bồi lắng lòng hồ, lòng sông, lòng suối cho những diện tích rừng nằm trên lưu vực của từng nhà máy thủy điện; tiền chi trả đối với loại hình dịch vụ điều tiết, duy trì nguồn nước cho sản xuất và đời sống xã hội cho những diện tích rừng nằm trên tất cả các lưu vực của các nhà máy thủy điện bậc thang. Quy định lại cơ chế điều chỉnh khi chi trả tiền DVMTR chênh lệch quá lớn giữa các tỉnh có rừng trong cùng lưu vực sông.
Ngoài ra, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ viễn thám, công nghệ thông tin để xác định diện tích rừng được chi trả tiền DVMTR hàng năm; xây dựng bản đồ chi trả DVMTR; xây dựng hệ thống và vận hành hệ thống giám sát đánh giá rừng để giúp công tác quản lý bảo vệ rừng ngày càng bền vững, công tác chi trả DVMTR ngày càng chính xác, hiệu quả.
Theo Báo cáo từ Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng, giai đoạn 2011- 2023, tổng thu tiền dịch vụ môi trường rừng đã đạt hơn 27.365 tỷ đồng, trong đó, riêng năm 2023, bên cạnh nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng theo Nghị định số 156/2018/NĐ-CP còn có nguồn thu từ dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các-bon rừng theo Nghị định số 107/2022/NĐ-CP (khoảng 997 tỷ đồng), nguồn tiền này đã giúp hỗ trợ bảo vệ hơn 7,3 triệu ha rừng, chiếm hơn 49% tổng diện tích rừng toàn quốc.
TS. MAI VĂN TIẾN
Đại học Tài nguyên và Môi trường
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 1+2 năm 2025