
Quảng Ninh: Ứng dụng chuyển đổi số vào nuôi biển, kết hợp du lịch và bảo vệ môi trường
05/09/2025TN&MTỨng dụng hiệu quả chuyển đổi số, đưa các tiến bộ khoa học công nghệ vào lĩnh vực thủy sản, đang là bước đi đúng và trúng ở Quảng Ninh
Đưa chỉ Chỉ thị số 13-CT/TU vào cuộc sống
Trước đó, ngày 10/8/2021, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh đã ban hành Chỉ thị số 13-CT/TU “Về tăng cường công tác quản lý và phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản trên biển, nhiều mô hình nuôi biển ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số”. Theo đó, Chỉ thị định hướng phát triển ngành thủy sản theo mô hình công nghiệp, hiện đại, đạt chuẩn xuất khẩu, hướng tới những thị trường khó tính như: Nhật Bản, Hàn Quốc.
Sau 4 năm triểu khai Chỉ thị, ngành thủy sản của Quảng Ninh đã hạt hái được rất nhiều thành công. Tính đến nay, toàn tỉnh đã cấp hơn 1.400 tài khoản hệ thống và 2.690 mã QR-code cho các sản phẩm nông, thủy sản tham gia truy xuất nguồn gốc. Trong đó, có hơn 86% sản phẩm thủy sản đã qua chế biến được gắn mã truy xuất, qua đó tạo niềm tin cho người tiêu dùng, mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường trong và ngoài nước.
Ứng dụng chuyển đổi số vào ngành thủy sản ở Quảng Ninh đang tạo nên bước đột phá cho ngành, vừa bảo tồn di sản, vừa kết hợp với du lịch và bảo vệ môi trường (Ảnh Việt Cường).
Bên cạnh đó, Đề án 06 “Về định danh tàu thuyền, bảo đảm đồng bộ, minh bạch”, đã cộng hưởng giúp cho ngành thủy sản Quảng Ninh phát triển đột phá. Đây là một Đề án, cho phép quản lý thông tin từ vùng nuôi, đối tượng nuôi, cơ sở sản xuất đến sản phẩm cuối cùng, đồng thời giúp cơ quan quản lý giám sát chặt chẽ quá trình cấp phép, giao khu vực biển, truy xuất nguồn gốc sản phẩm… Theo đó, nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX) đã áp dụng hệ thống cho ăn tự động, cảm biến theo dõi chất lượng nước, hay camera giám sát lồng nuôi. Những ứng dụng này giúp giảm chi phí nhân công, nâng cao tỷ lệ sống của con giống, đồng thời hạn chế tác động tiêu cực đến môi trường.
Điển hình như, tại Đặc khu Vân Đồn, HTX Thắng Lợi đã triển khai mô hình nuôi cá chim vây vàng bằng thức ăn công nghiệp, ứng dụng công nghệ quản lý đàn cá bằng phần mềm trực tuyến, giúp giảm chi phí nhân công, chính xác, hiệu quả. Hay như mô hình “Nuôi trồng thủy sản bền vững Vịnh Hạ Long gắn với bảo tồn di sản” ở làng chài Vông Viêng đã chứng minh khả năng kết hợp giữa công nghệ nuôi biển, du lịch sinh thái, gắn với bảo vệ môi trường và bảo tồn di sản thiên nhiên thế giới. Trong đó, mô hình của Công ty CP Tập đoàn STP kết hợp nuôi rong sụn với hàu tại vùng biển Vân Đồn, vừa tận dụng hiệu quả không gian biển, vừa cải thiện chất lượng môi trường, đang là mô hình hiệu quả, được các nhà quản lý, nhà khoa học đánh giá cao.
Nuôi hàu ở Vân Đồn đang được nhiều doanh nghiệp đầu tư phát triển (Ảnh Việt Cường).
Chia sẻ về mô hình đặc biệt này, bà Nguyễn Thị Hải Bình, Tổng Giám đốc Tập đoàn STP cho biết: Tập đoàn STP đã ký hợp tác với Viện Nghiên cứu Hải sản là nơi đã nghiên cứu các đề tài KHKT cho ngành rong sụn số 1 Việt Nam hiện nay, với những chuyên gia có gần 20 năm kinh nghiệm. Do đó, bà con sẽ được trang bị kỹ thuật và chuyển giao 100% công nghệ cũng như đảm bảo đầu ra cho sản phẩm, chấm dứt điệp khúc được mùa mất giá, bế tắc đầu ra như trước đây.
Tỉnh tháo gỡ khó khăn để nghề nuôi biển bứt phá
Từ năm 2016 đến nay, tỉnh Quảng Ninh đã triển khai nhiều chương trình nhằm hỗ trợ, thúc đẩy ngành thủy sản phát triển, một trong những kế hoạch đó phải kể đến Chương trình “Hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KHCN thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025”.
Theo đó, chương trình đã triển khai nhiều mô hình như: Mô hình như ứng dụng KHCN xây dựng mô hình sản xuất giống và nuôi thương phẩm sò huyết; Xây dựng mô hình ứng dụng tiến bộ KHCN nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh 2 giai đoạn ít thay nước theo công nghệ của Trúc Anh BiOtech; Nghiên cứu bệnh và địch hại trên một số nhuyễn thể hai mảnh vỏ nuôi chủ yếu và đề xuất giải pháp phòng chống; Sản xuất giống và nuôi thương phẩm sá sùng quy mô hàng hóa…
Nuôi sá sùng trên biển, kết hợp với làm du lịch và bảo vệ môi trường ( Ảnh Nguyễn Quý).
Hiệu quả từ việc đẩy mạnh áp dụng KHCN và chuyển đổi số, so với thời điểm trước khi ban hành Chỉ thị số 13-CT/TU, tổng sản lượng thủy sản từ gần 145.000 tấn năm 2020 tăng lên trên 166.000 tấn năm 2024 (tỷ lệ tăng bình quân 3%/năm). Các vùng nuôi tập trung đã tăng quy mô lên 32.092ha (tăng 151% so với năm 2020) với 11.228 cơ sở trong đó có 33 doanh nghiệp, 244 HTX và các hộ cá nhân tham gia sản xuất thuỷ sản, đưa giá trị sản xuất thủy sản năm 2024 đạt 7.000 tỷ đồng toàn tỉnh và dự kiến đến năm 2030 sẽ đạt trên 16.600 tỷ đồng (cao gấp 3 lần so với năm 2020).
Theo thống kê hiện Quảng Ninh có 184 cơ sở sơ chế, chế biến thủy sản, trong đó 24 cơ sở xuất khẩu đã áp dụng quy trình công nghệ tiên tiến, bảo đảm chất lượng, an toàn thực phẩm, đáp ứng yêu cầu của các thị trường khó tính như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đông Âu…
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc phát triển thủy sản ở Quảng Ninh vẫn còn gặp không ít thách thức như: Chồng lấn quy hoạch với luồng hàng hải, cảng biển; Thiếu đồng bộ trong phối hợp giữa các đơn vị quản lý hay việc nhiều doanh nghiệp, HTX chưa chú trọng đầu tư bài bản vào lập dự án, ứng dụng công nghệ.
Để tháo gỡ những khó khăn đó, tỉnh Quảng Ninh đang tích cực chủ động bằng cách hoàn thiện quy trình pháp lý, chuẩn hóa quy chuẩn kỹ thuật địa phương, đồng thời đẩy mạnh hỗ trợ các cơ sở sản xuất trong việc số hóa quản lý và ứng dụng công nghệ nuôi hiện đại. Cụ thể trong thời gian tới, tỉnh tiếp tục hoàn thiện cơ sở dữ liệu, xây dựng quy chuẩn kỹ thuật địa phương về nuôi biển, khuyến khích đầu tư vào công nghệ cao, đồng thời phát triển những mô hình kết hợp nuôi trồng với du lịch, bảo tồn sinh thái.
Thực hiện hiệu quả những chủ trương, kế hoạch trên, là con đường ngắn nhất để đưa Quảng Ninh trở thành trung tâm kinh tế biển hiện đại của cả nước, gắn kết hài hòa giữa khai thác tiềm năng, bảo vệ môi trường và hội nhập quốc tế, vững bước phát triển trong kỷ nguyên mới.
Việt Tùng