Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tới đa dạng sinh học

Thứ hai, 9/5/2022, 16:46 (GMT+7)
logo Cảnh báo mới đây của các nhà khoa học cho thấy, nếu các quốc gia không nâng đáng kể mức cam kết cắt giảm khí thải carbon được đưa ra trong Hiệp định Paris về BĐKH ký năm 2015, những hệ sinh thái động thực vật đa dạng nhất của thế giới sẽ bị tình trạng BĐKH tàn phá đến mức không thể cứu vãn. Báo cáo tổng hợp và phân tích 8.000 công trình đánh giá nguy cơ với các loài sinh vật cho thấy nếu nhiệt độ bề mặt Trái Đất tăng 30C so với thời kỳ trước Cách mạng công nghiệp, gần 300 vùng đa dạng sinh học (ĐDSH) trên đất và trên biển có nguy cơ xảy ra tuyệt chủng.

Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tới đa dạng sinh học

Việt Nam là một trong 16 quốc gia có mức độ ĐDSH cao nhất thế giới, và cũng là quốc gia thứ hai trong khu vực Đông Á về số lượng các loài bị đe dọa tuyệt chủng. Diện tích rừng tự nhiên có mức độ ĐDSH cao ở Việt Nam đã giảm đáng kể. Chỉ còn lại khoảng 0,5 triệu ha rừng nguyên sinh nằm rải rác ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Bắc Trung Bộ và hầu hết các rừng ngập mặn nguyên sinh đã biến mất. Việt Nam có 128 khu rừng đặc dụng tạo ra hệ thống khu bảo tồn của cả nước, chủ yếu là những khu rừng nhỏ và nằm phân tán, một số còn bao gồm các vùng canh tác nông nghiệp và khu dân cư. Phần lớn các loài chim đẹp và động vật có vú lớn đã biến mất. Nhiều khu rừng bị suy giảm không chỉ về phạm vi mà còn cả chất lượng môi trường sống. Việc phát triển cơ sở hạ tầng tràn lan trong các khu vực có rừng càng gia tăng nguy cơ đe dọa sự tồn tại lâu dài của chúng. Trong tổng số 310 loài động vật có vú chính được nhận dạng thì có đến 78 loài đang bị đe dọa (căn cứ theo mức độ bị đe dọa cấp quốc gia), trong đó 46 loài được quốc tế công nhận. Rất nhiều loài trong số đó đang đứng bên bờ vực tuyệt chủng do quần thể ngoài tự nhiên còn quá nhỏ và bị chia cắt, ví dụ Voọc Cát Bà (Trachypithecus policephalus) còn khoảng 60 cá thể ngoài tự nhiên, Voi châu Á (Elephas maximus) khoảng trên 100 cá thể,...

Biến đổi khí hậu và nước biển dâng sẽ là tác nhân có thể tác động làm thay đổi cấu trúc, vùng phân bố của các loài sinh vật và mức độ ĐDSH của các hệ sinh thái ở Việt Nam. Cụ thể là sự gia tăng nhiệt độ, lượng mưa, nước biển dâng và nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan khác đã ảnh hưởng đến các hệ sinh thái. Thời gian ra hoa hay chế độ di cư cũng như phân bố loài đã có những thay đổi được ghi nhận trên toàn thế giới. Nghiên cứu về BĐKH ở châu Âu cho thấy, trong vòng 40 năm qua, mùa sinh trưởng đã sớm hơn trung bình 10 ngày. Sự thay đổi này có thể dẫn đến thay đổi về chuỗi thức ăn và sự không đồng bộ trong hệ sinh thái, điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của những loài có sự phụ thuộc lẫn nhau, ví dụ giữa loài thụ phấn và thực vật được thụ phấn. BĐKH cũng dự báo làm thay đổi phạm vi hoạt động của các sinh vật mang bệnh, khiến chúng tiếp xúc với vật chủ chưa phát triển miễn dịch. Do đó, trong bối cảnh BĐKH, nhiều loài động thực vật hoang dã sẽ phải chịu nhiều áp lực ngày càng tăng do phải thay đổi nơi cư trú, nguồn thức ăn bị thay đổi và thiên tai lũ lụt, hạn hán và mưa bão sẽ diễn ra thường xuyên hơn.

Nhiệt độ tăng sẽ làm thay đổi vùng phân bố và cấu trúc quần xã sinh vật. Nhiệt độ tăng còn làm làm nguồn thủy, hải sản bị phân tán. Các loài cá nhiệt đới (kém giá trị kinh tế trừ cá ngừ) tăng lên, các loài cá cận nhiệt đới (giá trị kinh tế cao) giảm. Các thay đổi diễn ra trong các hệ thống vật lý, hệ sinh học và hệ thống kinh tế xã hội đe dọa sự phát triển, đe dọa cuộc sống của tất cả các loài, các hệ sinh thái. Hai vùng đồng bằng và khu vực ven biển nước ta, trong đó có rừng ngập mặn và hệ thống đất ngập nước rất giàu có về các loài sinh vật, là những hệ sinh thái rất nhạy cảm, dễ bị tổn thương. Mực nước biển dâng lên cùng với cường độ của bão sẽ làm thay đổi thành phần của trầm tích, độ mặn và mức độ ô nhiễm của nước, làm suy thoái và đe dọa sự sống còn của rừng ngập mặn và các loài sinh vật đa dạng trong đó.

Đa dạng sinh học mang tính quan hệ tương hỗ và những liên kết này có lợi ích to lớn cho các ngành sản xuất như nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, du lịch,... Do đó, trong điều kiện BĐKH, mức độ ĐDSH của các HST bị suy giảm dẫn đến suy giảm chức năng dịch vụ của chúng và suy giảm sản lượng của các ngành sản xuất này. Khi có sự thay đổi nhiệt độ thì sự ra hoa của thực vật đặc biệt nhạy cảm với nhiệt độ trước đó khoảng 1 tháng và các loài ra hoa vào mùa xuân đáp ứng nhanh hơn các loài khác, cây hàng năm bị tác động mạnh hơn các loài cây lâu năm; các loài cây thụ phấn nhờ côn trùng bị ảnh hưởng nhiều hơn các loài thụ phấn nhờ gió. Một số loài côn trùng sẽ xuất hiện sớm hơn bình thường khi nhiệt độ môi trường tăng lên. Do đó, sự thay đổi khí hậu gây ra tác động rất nghiêm trọng đến thụ phấn côn trùng và thực vật có hoa. Sự thay đổi này có thể do năm có nhiệt độ ấm và thời gian rét ngắn thì cây ra hoa sớm hơn, năm có nhiệt độ thấp và thời lạnh kéo dài thì cây ra hoa muộn hơn. Những tác động tương tự của sự gia tăng nhiệt độ cũng làm ảnh hưởng đến các loài côn trùng gây hại cho cây trồng và vật nuôi, dẫn đến những ảnh hưởng nghiêm trọng cho sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi.

Các nhà khoa học dự báo đến năm 2070, các loài cây nhiệt đới vùng núi ở Việt Nam sẽ phát triển ở khu vực cao hơn hiện tại khoảng từ 100 m đến 500 m và dịch chuyển lên vùng phía Bắc khoảng 100 km đến 200 km so với vị trí hiện tại của chúng. Trong khi đó, diện tích có sự phân bố của các loại thực vật mang tính á nhiệt đới có thể bị thu hẹp. Tuy nhiên, các loài động thực vật sinh sống ở các khu vực đất thấp và ven biển sẽ phải đối mặt với nhiều nguy cơ hơn khi phải thích nghi với môi trường sống cao hơn và dịch chuyển nhiều hơn về Tây hoặc phía Bắc của Việt Nam. Thêm vào đó, với mật độ dân số cao tại khu vực ven biển của Việt Nam, môi trường sinh thái của các loài này bị tác động và thay đổi đáng kể, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của chúng.

Với nguồn lợi thủy sản và nghề cá, năng suất của ngành thủy sản phụ thuộc vào ĐDSH. Các HST biển Việt Nam là cơ sở duy trì trữ lượng cá biển trên 5,3 triệu tấn và hàng năm có thể đáp ứng khoảng 47% nhu cầu protein của người dân. Trong bối cảnh BĐKH, tiềm năng về đánh bắt hải sản cũng sẽ bị giảm mạnh trong điều kiện nhiệt độ tăng, mực nước biển dâng cao, đại dương nóng lên và axit hóa đại dương. Các loài động vật không xương sống và cá ở biển đều là động vật biến nhiệt, rất nhạy cảm với sự thay đổi nhiệt độ của môi trường xung quanh. Nhiệt độ nước biển tăng cũng làm giảm khả năng hòa tan oxy trong nước, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của các loài thủy sản do hạn chế sự hô hấp. Độ mặn ảnh hưởng đến sự phát triển của các loài hải sản, các loài thủy sản ưa thích các độ mặn khác nhau. DARA và Diễn đàn Tổn thương Khí hậu ước tính Việt Nam có mức thiệt hại của hoạt động KTTS (bao gồm khai thác biển và nội địa) do BĐKH theo kịch bản phát thải trung bình, tương đương với mức tăng nhiệt độ khoảng 0,5÷0,80C, thì mức thiệt hại vào khoảng 3,25 tỷ USD vào năm 2030 theo mức giá so sánh năm 2010.

Hiện tượng axit hóa đại dương cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến mức độ đa dạng của các hệ sinh thái biển. Tác động lên ĐDSH thể hiện ở chỗ axit hóa sẽ phá hủy các ion cacbonat, là thành phần cấu tạo của nhiều sinh vật đại dương như san hô, sinh vật có vỏ và nhiều sinh vật phù du để hình thành lớp vỏ bao phủ bên ngoài. Dù chưa có nhiều nghiên cứu cụ thể về tác động của quá trình axit hóa đại dương, tuy nhiên những tác động đến quá trình sinh trưởng và phát triển của các loài sinh vật, đe dọa hủy hoại mạng lưới thức ăn chắc chắn sẽ ảnh hưởng mật độ các cá thể, mức độ đa dạng của loài và hệ sinh thái biển nói chung, cũng như các hệ sinh thái san hô. Các tác động cộng hưởng và tổng hợp của BĐKH, do đó, gây ảnh hưởng đến tất cả các sinh vật sống từ dạng đơn giản nhất đến các sinh vật và các hệ sinh thái biển và ven biển.

Biến đổi khí hậu và nước biển dâng đe dọa tới tài nguyên di truyền. Sự mất đa dạng trong chủng loại và giống các loài cây trồng và vật nuôi sử dụng để duy trì đời sống của con người. Ví dụ, trong nông nghiệp, suy thoái tài nguyên di truyền đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động chăn nuôi, một số giống hiện nay đang còn rất ít như lợn Ỉ, lợn Ba Xuyên, gà Hồ,... Thêm vào đó, mức độ suy giảm ĐDSH có nguy cơ nghiêm trọng hơn trong điều kiện tác động cộng hưởng của các yếu tố tự nhiên với nhau như sự gia tăng nhiệt độ, mực nước biển dâng, độ mặn nước biển tại các vùng ven bờ, gia tăng quá trình axit hóa đại dương, tăng cả về tần suất và mức độ tác động của các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, lũ, hạn hán, nắng nóng, rét đậm và rét hại cũng như giữa các nhân tố tự nhiên và con người.

THU HƯƠNG

Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu