
Tóm tắt
Nghiên cứu này đánh giá bước đầu việc triển khai kinh tế tuần hoàn ở các trang trại trồng nấm thông qua khung phân tích ReSOLVE. Để đánh giá hoạt động của các trang trại, một cuộc khảo sát đã được thực hiện bằng cách sử dụng một bảng câu hỏi bao gồm bốn mươi hai thực hành tương ứng với sáu hành động trong khung phân tích ReSOLVE. Kết quả cho thấy “Regenerate” (3,8 điểm) và “Optimize” (3,4 điểm) là các hành động được sử dụng nhiều nhất, cho thấy rằng các trang trại có đặc điểm là sản xuất và họ sẽ tập trung hơn vào phần vận hành, đồng thời do đặc thù trong việc sản xuất nấm nên có việc tận dụng lại nguồn chất thải. Tiếp theo là “Loop” (2,4 điểm) liên quan đến tái sử dụng chất thải và “Trao đổi” (2,2 điểm) liên quan đến việc cập nhật sản phẩm hoặc dịch vụ và sử dụng công nghệ mới trong sản xuất. Mặt khác, “Virtualize” và “Share” có mức độ tuân thủ thấp hơn, đạt 1,8 và 0, tương ứng. Tổng thể, kết quả cho thấy các doanh nghiệp đạt điểm dưới trung bình cho cả sáu hành động trong khung ReSOLVE; điều này cho thấy việc áp dụng kinh tế tuần hoàn ở các trang trại trồng nấm còn thấp. Có thể các trang trại không hiểu rõ về kinh tế tuần hoàn và coi kinh tế là động lực chính của họ thay vì mục tiêu phát triển bền vững.
Từ khóa: nấm, khung phân tích, ReSOLVE, kinh tế tuần hoàn, Tây Nguyên.
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Vật liệu nghiên cứu: Nghiên cứu này đánh giá mức độ áp dụng kinh tế tuần hoàn của một số trang trại nấm đang hoạt động tại tỉnh Lâm Đồng. Các trang trại này có quy mô khác nhau từ lớn, vừa đến nhỏ và canh tác chủ yếu là nấm mỡ (Agaricus bisporus) và nấm hương (Lentinula edodes).
Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi đã tạo ra một bảng hỏi nhằm đánh giá hoạt động của công ty để đánh giá mức độ áp dụng kinh tế tuần hoàn của công ty theo khung phân tích ReSOLVE. Các hoạt động được phân loại thành bốn mức độ thực hiện: không tồn tại (KTT), mới thực hiện (MTH), đã thành lập (ĐTL), và tối ưu hoá (TUH). Tất cả bốn mươi hai thực hành được đưa ra trong khung ReSOLVE dựa trên nghiên cứu của và được điều chỉnh lại cho phù hợp với điều kiện tại Việt Nam. Sau khi lập bảng hỏi, chúng tôi phỏng vấn một số trang trại trồng nấm từ lớn đến vừa và nhỏ tại tỉnh Lâm Đồng.
Chúng tôi tiến hành cho điểm đối với từng mức độ thực hiện thực hành tuần hoàn, cụ thể như sau: điểm 0 cho KTT, 3,3 cho ĐTH, 6,6 cho ĐTL và 10 cho TUH. Từ đó, chúng tôi có thể ghi nhận điểm trung bình và độ lệch chuẩn cho từng thực hành và nhóm hành động của khung ReSOLVE.
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Bảng 1 trình bày các thực hành kinh tế tuần hoàn của các trang trại trồng nấm theo khung ReSOLVE. Hành động “Regenerate” (3,8 điểm) và “Optimize” (3,4 điểm) được sử dụng nhiều nhất, cho thấy các trang trại tập trung nhiều vào khâu hoạt động do đặc điểm của họ là vận hành sản xuất, đồng thời phần phụ phẩm phát sinh (cụ thể là giá thể sau trồng nấm) sẽ được tận dụng làm phân compost hoặc dùng làm giá thể cho các loại nấm phù hợp khác. Tiếp theo là “Loop” (2,4 điểm) với mục tiêu tận dụng nguồn phụ phẩm và do đó đóng kín phần nào chu trình sản xuất và giúp giảm thất thoát nguồn tài nguyên; “Exchange” (2,2 điểm) do cập nhật sản phẩm và dịch vụ cũng như công nghệ mới trong quá trình sản xuất. Mặt khác, “Virtualize” có mức độ tuân thủ thấp hơn, nhận được điểm 1,8, đặc biệt là “Share” có điểm số là 0, điều này thể hiện đặc thù hoàn toàn của sản xuất thực phẩm không thể chia sẻ cũng như tái sử dụng lại sản phẩm. Khi xem xét tổng số các thực hành đã thành lập (ĐTL) và các thực hành đã tối ưu hóa (TUH), chỉ có 14/42 thực hành vượt quá mức tuân thủ 50%. Thực hành ĐTH và ĐTL chiếm ưu thế đối với “Regenerate” và “ Optimize”, mặc dù ưu thế này không lớn. Các thực hành trong động “Share” và “Virtualize” vẫn chưa được coi là quan trọng nhất là “Share”. Điều này là do đặc thù hoạt động sản xuất của các trang trại nên rất khó chia sẻ với các công ty khác. Ngoài ra, các trang trại sản xuất theo hợp đồng yêu cầu của khách
Bảng 1. Khung ReSOLVE - màu xanh đậm nhất thể hiện tỷ lệ cao nhất-được sử dụng để thực hiện các thực hành kinh tế tuần hoàn trong các doanh nghiệp.
Theo kết quả của khung ReSOLVE, thực hành kinh tế tuần hoàn được các doanh nghiệp sử dụng nhiều nhất là “ Có quản lý chất thải để tái tạo những gì có thể được sử dụng”, “Tránh/giảm phát sinh chất thải trong quá trình” và “Khuyến khích tái chế và tân trang lại như một giải pháp thay thế cho việc thải bỏ” (tất cả đều đạt 6,6 điểm ở mỗi thực hành). Kết quả này khá phù hợp với hoạt động của các trang trại trồng nấm, nơi các chiến lược này nhằm giảm chi phí sản xuất bằng cách tận dụng nguồn phế phẩm phát sinh ra trong quá trình sản xuất.
Trong khung phân tích ReSOLVE, hành động cuối cùng là “Exchange”. Ở đây, các trang trại chỉ có thể tập trung vào việc cập nhật sản phẩm và dịch vụ của họ và cập nhật các công nghệ mới hiệu quả hơn. Tuy nhiên, việc cập nhật hoặc thay đổi công nghệ là một thực hành khá khó thực hiện. Điều này là do các trang trại vừa và nhỏ ít vốn hơn và hoạt động sản xuất của họ chỉ tập trung vào một số sản phẩm nhất định. Do đó, việc chuyển đổi sang công nghệ mới là khó khăn.
Kết luận
Theo nghiên cứu này, khung phân tích ReSOLVE có thể dễ dàng được sử dụng để đánh giá các thực hành kinh tế tuần hoàn của tại các trang trại trồng nấm. Theo kết quả, các trang trại tập trung nhiều vào các hành động tái tạo, Tối ưu, và vòng lặp. Do đó, để tăng cường mức độ áp dụng KTTH cho ngành nấm khu vực Tây Nguyên, các giải pháp liên quan thực hành chia sẻ và ảo hóa (“virtualize)) nên được nghiên cứu áp dụng. Các giải pháp này liên quan đến việc chia sẻ thông tin về nguồn phụ phế phẩm, chia sẻ sản phẩm, công cụ đã qua sử dụng (nắp nhựa giá thể, giá thể đã sử dụng để trồng các loại nấm khác…), hoặc áp dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử trong việc cung cấp sản phẩm đến người tiêu dùng.
Ngoài ra, kết quả cho thấy rằng các trang trại đều nhận được mức điểm dưới trung bình đối với cả sáu hành động trong khung ReSOLVE. Điều này cho thấy rằng các trang trại hiểu rằng kinh tế tuần hoàn là động lực chính để các doanh nghiệp thực hiện chứ không phải là mục tiêu phát triển bền vững. Nghiên cứu các giải pháp KTTH khả thi cho chuỗi ngành nấm và đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường của các giải pháp này là cần thiết nhằm cải thiện mức độ chấp nhận các giải pháp KTTH của các trang trại trên địa bàn.
Tài liệu tham khảo
1. Mulia, R., N. Khasanah, and D.C. Catacutan, Alternative forest-plantation systems for Central Viet Nam: projections of growth and production with a profitability analysis using the WaNuL-CAS model. Hanoi, Viet Nam: World Agroforestry Centre (ICRAF). 2018;
2. EMF, Towards a Circular Economy - Business Rationale for an Accelerated Transition. Ellen MacArthur Foundation (EMF), p. 20. 2015;
3. Sehnem, S., et al., Disruptive innovation and circularity in start-ups: A path to sustainable development. Business Strategy and the Environment, 2022. 31(4): p. 1292-1307;
4. Lacy, P. and J. Rutqvist, Waste to wealth: The circular economy advantage. Springer. 2015.
5. Tedesco, M., et al., Assessment of the circular economy in the Brazilian planted tree sector using the ReSOLVE framework. Sustainable Production and Consumption, 2022. 31: p. 397-406;
6. Salvador, R., et al., Circular economy strategies on business modelling: Identifying the greatest influences. Journal of Cleaner Production, 2021. 299: p. 126918.
BÙI LÊ THANH KHIẾT1, NGUYỄN MINH TÚ1, NGUYỄN QUANG LỘC1,
TRẦN THỊ MINH NGUYỆT1, NGUYỄN HỒNG QUÂN1,2*
1 Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế tuần hoàn
2 Trung tâm Quản lý nước và Biến đổi khí hậu, Viện Môi trường và Tài nguyên
3 Trường Đại học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 21 (Kỳ 1 tháng 11) năm 2024