
Nếu Chính phủ là “người vẽ bản đồ” và hợp tác quốc tế mang đến “chiếc la bàn”, thì cộng đồng và doanh nghiệp chính là người cầm lái con thuyền giảm phát thải. Trên đồng ruộng, trong trang trại, nhà máy hay hầm mỏ, họ mới là những người quyết định khí mê-tan có tiếp tục thoát vào khí quyển hay được kiểm soát, thu hồi và biến thành nguồn năng lượng sạch.
Doanh nghiệp - hạt nhân đổi mới công nghệ và thị trường carbon
Trong tiến trình giảm phát thải mê-tan, doanh nghiệp giữ vai trò động lực đổi mới công nghệ và khai thác cơ hội tài chính khí hậu. Khác với cộng đồng nông dân, doanh nghiệp có lợi thế về vốn, năng lực quản lý và khả năng kết nối thị trường. Đây chính là lý do nhiều chuyên gia gọi họ là “hạt nhân” của quá trình chuyển đổi xanh.
Trong khai thác than hầm lò, khí mê-tan là mối đe dọa tiềm ẩn cho an toàn lao động, đồng thời cũng là nguồn phát thải lớn. Thực tế, một số công ty mỏ tại Quảng Ninh đã chủ động thí điểm công nghệ thu hồi khí mỏ than (Coal Mine Methane - CMM) để phát điện. Kết quả cho thấy, mô hình này vừa giúp giảm phát thải, vừa tạo ra hàng triệu kWh điện mỗi năm, đồng thời giảm nguy cơ cháy nổ trong hầm lò.
ThS. Nguyễn Thị Thu Huyền (Trung tâm Tư vấn và Công nghệ Môi trường Mỏ) nhấn mạnh trong một cuộc họp mới đây của Cục Biến đổi khí hậu (Bộ NN&MT): “Thu hồi khí mê-tan mỏ than không chỉ giúp giảm phát thải mà còn đảm bảo an toàn sản xuất. Nhưng để nhân rộng, cần cơ chế giá điện và ưu đãi đầu tư rõ ràng”. Điều này cho thấy, doanh nghiệp không chỉ nhìn thấy trách nhiệm môi trường, mà còn nhìn thấy lợi ích kinh tế và an toàn khi đầu tư vào công nghệ giảm phát thải.
Trong lĩnh vực dầu khí, một số doanh nghiệp đã bắt đầu thử nghiệm công nghệ phát hiện và sửa chữa rò rỉ (LDAR), sử dụng thiết bị cảm biến hiện đại để phát hiện các điểm rò rỉ khí mê-tan trên giàn khoan, đường ống và kho chứa. Đây là công nghệ đã được áp dụng phổ biến ở Mỹ, Na Uy, Canada và đang dần xuất hiện tại Việt Nam.
TS. Lương Quang Huy (Cục Biến đổi khí hậu) nhận định: “Ngành dầu khí có tiềm năng giảm phát thải lớn thông qua giảm đốt bỏ và thông khí, đồng thời triển khai công nghệ LDAR để kiểm soát thất thoát trên toàn hệ thống. Nếu tận dụng và thu hồi được khí đồng hành, chúng ta vừa giảm phát thải, vừa có thêm nguồn năng lượng quý giá”.
Một số dự án cũng đã nghiên cứu tận dụng khí đồng hành để phát điện tại chỗ hoặc bơm ngược vào mỏ duy trì áp suất, thay vì đốt bỏ như trước. Những bước đi tiên phong này cho thấy vai trò quan trọng của doanh nghiệp trong việc biến công nghệ quốc tế thành hành động cụ thể tại Việt Nam.
Doanh nghiệp và cơ hội từ thị trường carbon
Ngoài lợi ích trực tiếp từ an toàn và năng lượng, doanh nghiệp còn có thể hưởng lợi từ tín chỉ carbon. Mỗi tấn mê-tan giảm được, khi được đo đạc, báo cáo, thẩm định (MRV) minh bạch, sẽ trở thành một tín chỉ có thể bán trên thị trường trong nước hoặc quốc tế.
Điều này giúp doanh nghiệp không chỉ giảm chi phí môi trường, mà còn biến phát thải thành lợi nhuận. TS. Lương Quang Huy đã chỉ rõ: “Nếu không có hệ thống minh bạch, tín chỉ carbon của chúng ta sẽ khó được chấp nhận trên thị trường quốc tế. Nhưng nếu làm tốt, đây sẽ là nguồn lực tài chính quan trọng để doanh nghiệp tái đầu tư vào công nghệ xanh”.
Thực tế, nhiều tập đoàn quốc tế đang chi hàng tỷ USD mỗi năm để mua tín chỉ carbon, bù đắp cho phát thải khó tránh trong hoạt động sản xuất. Nếu tham gia hiệu quả, doanh nghiệp Việt Nam không chỉ góp phần giảm phát thải quốc gia mà còn có thể thu hút dòng vốn xanh trực tiếp từ thị trường toàn cầu.
Cộng đồng - lực lượng ở tuyến đầu chuyển đổi
Nếu doanh nghiệp là “động cơ công nghệ” thì cộng đồng chính là trái tim hành động trong tiến trình giảm phát thải mê-tan. Hàng triệu nông dân trên cánh đồng, các hộ chăn nuôi, người dân thành thị trong đời sống hằng ngày, chính họ là những người trực tiếp quyết định khí mê-tan có thoát ra môi trường hay không.
Trong lĩnh vực trồng lúa, việc giữ nước ngập ruộng liên tục là tập quán canh tác lâu đời. Tuy nhiên, chính cách làm này lại là nguồn phát thải mê-tan lớn nhất. Giải pháp tưới ngập khô xen kẽ (AWD) đã chứng minh hiệu quả: giảm tới 30-40% phát thải mê-tan mà không làm giảm năng suất.
PGS.TS Mai Văn Trịnh (Viện Môi trường Nông nghiệp) từng nhận định trong tham luận: “Áp dụng AWD không chỉ giúp giảm phát thải mê-tan mà còn tiết kiệm nước tưới, giảm chi phí cho nông dân. Điều quan trọng là phải chuyển giao kỹ thuật và xây dựng niềm tin để họ thấy được lợi ích ngay trong mùa vụ”.
Một hộ nông dân ở Đồng Tháp từng chia sẻ khi áp dụng AWD: lượng nước tưới giảm 25–30%, chi phí điện bơm giảm gần 1 triệu đồng/ha, trong khi năng suất lúa vẫn ổn định. Đó chính là minh chứng rõ ràng để thuyết phục cộng đồng nông dân.
Trong chăn nuôi, khí mê-tan chủ yếu phát thải từ quá trình tiêu hóa ở gia súc nhai lại (trâu, bò) và từ chất thải chăn nuôi. Giải pháp bao gồm: Cải thiện khẩu phần ăn, bổ sung phụ gia như tannin, zeolit hoặc 3-NOP để giảm quá trình sinh mê-tan trong dạ cỏ; Xây dựng hầm biogas hộ gia đình, vừa xử lý chất thải, vừa tạo ra khí đốt cho nấu nướng và phát điện.
TS. Lê Thị Thanh Huyền phân tích: “Cải thiện khẩu phần ăn và bổ sung phụ gia ức chế sinh mê-tan là giải pháp hứa hẹn, nhưng muốn nhân rộng thì phải có chính sách hỗ trợ, tập huấn và kết nối thị trường. Người nông dân chỉ sẵn sàng thay đổi khi thấy rõ lợi ích trực tiếp”.
Thực tế, hàng chục nghìn hầm biogas đã được lắp đặt ở nông thôn, mang lại lợi ích kép: giảm ô nhiễm môi trường, giảm chi phí chất đốt và góp phần cắt giảm hàng triệu tấn CO₂tđ.
Ở đô thị, rác thải hữu cơ là nguồn phát thải mê-tan lớn nếu bị chôn lấp không kiểm soát. Việc phân loại rác tại nguồn đóng vai trò then chốt. Nếu người dân thực hiện nghiêm túc, lượng rác hữu cơ có thể được đưa đến các nhà máy compost hoặc điện - rác để xử lý, thay vì xả thẳng vào bãi chôn lấp.
TS. Lương Quang Huy từng nhấn mạnh: “Phân loại rác tại nguồn chính là điều kiện tiên quyết để các công nghệ xử lý rác hữu cơ và thu hồi khí phát huy hiệu quả. Nếu cộng đồng không tham gia, mọi đầu tư công nghệ sẽ khó đạt được mục tiêu”.
Ở một số địa phương như Hà Nội, TP. HCM, Đà Nẵng, đã có mô hình thí điểm phân loại rác tại hộ gia đình. Kết quả cho thấy, khi cộng đồng tham gia, lượng rác hữu cơ thu gom riêng có thể tăng gấp đôi, giảm tải cho bãi chôn lấp và tạo điều kiện cho các dự án xử lý hiện đại.
Điểm đặc biệt là, sức mạnh của cộng đồng không đến từ những dự án hàng trăm triệu USD, mà từ hàng triệu hành động nhỏ: một hộ nông dân thay đổi cách tưới, một hộ gia đình lắp hầm biogas, một khu phố phân loại rác đúng cách. Khi những hành động nhỏ ấy cộng lại, chúng tạo thành dòng chảy lớn, mang tính quyết định cho mục tiêu quốc gia.
TS. Nguyễn Thị Thu Huyền khẳng định: “Giảm phát thải mê-tan không chỉ là chuyện ở tầm quốc gia hay quốc tế. Nó bắt đầu từ mỗi thửa ruộng, mỗi chuồng trại, mỗi thùng rác. Chính cộng đồng mới là tuyến đầu của cuộc chiến này”.
Nhiều cuộc họp đã được diễn ra bởi Cục Biến đổi khí hậu với các chuyên gia, doanh nghiệp bàn về giảm phát thải mê -tan
Liên kết cộng đồng - doanh nghiệp - chính quyền
Giảm phát thải mê-tan là một nhiệm vụ phức tạp, không thể thành công nếu chỉ dựa vào nỗ lực đơn lẻ. Nó đòi hỏi một mối liên kết chặt chẽ ba bên: cộng đồng - doanh nghiệp - chính quyền. Cụ thể: (1) Cộng đồng là lực lượng tuyến đầu, trực tiếp thay đổi thói quen sản xuất và sinh hoạt. Từ cách tưới nước trên ruộng lúa, việc lắp đặt hầm biogas trong hộ gia đình đến phân loại rác ở đô thị, mỗi hành động nhỏ của cộng đồng đều tạo nên sự thay đổi lớn. (2) Doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ hiện đại, phát triển chuỗi giá trị xanh và khai thác cơ hội từ thị trường carbon. (3) Chính quyền, kiến tạo khung pháp lý, hỗ trợ tài chính, giám sát minh bạch và bảo đảm phân bổ lợi ích công bằng.
ThS. Nguyễn Thị Thu Huyền nhấn mạnh: “Nếu chỉ có doanh nghiệp hoặc chỉ có nông dân, rất khó tạo ra thay đổi. Phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên, trong đó chính quyền giữ vai trò cầu nối”.
Thực tế, một số mô hình liên kết ba bên đã chứng minh hiệu quả: hợp tác xã nông dân triển khai AWD với sự hỗ trợ kỹ thuật từ cơ quan khuyến nông và đầu tư tiêu thụ lúa gạo carbon thấp từ doanh nghiệp; hoặc các dự án xử lý rác nơi chính quyền ban hành cơ chế phân loại, doanh nghiệp đầu tư công nghệ, còn người dân trực tiếp thực hiện. Những mô hình này cho thấy, chỉ khi tất cả cùng tham gia, việc giảm phát thải mới trở thành một chuỗi giá trị bền vững.
ảnh minh hoạ
Định hướng đến 2030 và tầm nhìn 2050
Trong giai đoạn 2025-2030, Việt Nam đặt mục tiêu: (1) Nông nghiệp nhân rộng ít nhất 1 triệu ha lúa áp dụng AWD; phổ biến biogas hộ gia đình và chăn nuôi carbon thấp tại các tỉnh trọng điểm. (2) Chất thải, mở rộng các dự án phân loại rác tại nguồn và xử lý compost, thu hồi khí tại các bãi chôn lấp lớn. (3) Năng lượng, nhân rộng thu hồi khí mỏ than, triển khai LDAR tại các cơ sở khai thác dầu khí. (4) Thị trường carbon, vận hành đầy đủ thị trường trong nước, cho phép doanh nghiệp và cộng đồng tham gia bán tín chỉ.
TS. Lương Quang Huy nhấn mạnh: “Đến năm 2030, chúng ta cần không chỉ đạt con số 30% giảm phát thải mê-tan, mà còn hình thành được hệ sinh thái hành động, nơi cộng đồng và doanh nghiệp cùng hưởng lợi và cùng gắn bó lâu dài.”
Về dài hạn, tầm nhìn đến 2050 của Việt Nam là chuyển đổi toàn diện: (1) Xã hội carbon thấp: mọi hoạt động từ sản xuất đến tiêu dùng đều gắn với mục tiêu giảm phát thải. (1) Doanh nghiệp chủ động: trở thành nhà cung cấp tín chỉ carbon uy tín trên thị trường quốc tế, xuất khẩu công nghệ và mô hình giảm phát thải. (3) Cộng đồng tiên phong: nông dân, hợp tác xã, người dân đô thị tham gia như một phần tự nhiên trong lối sống xanh. (4) Việt Nam dẫn dắt khu vực: không chỉ nhận hỗ trợ, mà còn chia sẻ kinh nghiệm quản lý mê-tan cho các nước đang phát triển khác.
TS. Lê Thị Thanh Huyền kỳ vọng: “Nếu được hỗ trợ đúng cách, nông dân và cộng đồng có thể trở thành tác nhân trung tâm trong hành trình tới 2050. Lúc đó, giảm phát thải không còn là gánh nặng, mà là cơ hội sinh kế và phát triển bền vững”.
Trải qua năm kỳ, chúng ta đã cùng nhau đi hết hành trình 4 kỳ báo: Kỳ 1: Bức tranh toàn cầu và cam kết của Việt Nam; Kỳ 2: Nông nghiệp và chất thải - hai nguồn phát thải lớn nhất; Kỳ 3: Năng lượng - mặt trận then chốt giảm phát thải mê-tan; Kỳ 4: Hợp tác quốc tế và tài chính khí hậu - đòn bẩy thực thi cam kết; Kỳ 5: Cộng đồng và doanh nghiệp - tuyến đầu hành động. Bức tranh giảm phát thải mê-tan của Việt Nam giờ đây đã hiện lên đầy đủ. Con đường phía trước chắc chắn còn nhiều khó khăn như chi phí công nghệ, thói quen sản xuất, cơ chế chính sách, và sự phụ thuộc vào hỗ trợ quốc tế. Nhưng đồng thời, đây cũng là cơ hội vàng để Việt Nam xây dựng nền kinh tế xanh, nâng cao chất lượng sống và khẳng định vị thế trên trường quốc tế.
Điều quan trọng nhất là mọi cam kết chỉ có ý nghĩa khi biến thành hành động. Hành động ấy bắt đầu từ cộng đồng, được dẫn dắt bởi doanh nghiệp, kiến tạo bởi chính quyền và hỗ trợ bởi quốc tế. Khi tất cả cùng chung tay, mục tiêu giảm phát thải mê-tan ít nhất 30% vào năm 2030 và tiến tới phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 sẽ không còn là điều xa vời.