Bảo vệ đa dạng sinh học trước tác động của biến đổi khí hậu

Thứ ba, 8/10/2024, 10:18 (GMT+7)
logo Dưới áp lực của các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội cũng như tác động của biến đổi khí hậu, đa đang sinh học bị suy thoái nghiêm trọng, nhiều loài động thực vật có nguy cơ tuyệt chủng. Việt Nam là một trong 16 quốc gia có mức độ đa dạng sinh học cao nhất thế giới, và cũng là quốc gia thứ hai trong khu vực Đông Á về số lượng các loài bị đe dọa tuyệt chủng. Do đó, bảo vệ đa dạng sinh học bền vững là yêu cầu cấp thiết đặt ra cho cơ quan quản lý và mỗi người dân chúng ta.

Bảo vệ đa dạng sinh học trước tác động của biến đổi khí hậu

Tác động của biến đổi khí hậu đến đa dạng sinh học

Báo cáo của Bộ TN&MT cho thấy, BĐKH và nước biển dâng sẽ là tác nhân có thể tác động làm thay đổi cấu trúc, vùng phân bố của các loài sinh vật và mức độ ĐDSH của các hệ sinh thái ở Việt Nam. Cụ thể là sự gia tăng nhiệt độ, lượng mưa, nước biển dâng và nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan khác đã ảnh hưởng đến các hệ sinh thái. Thời gian ra hoa hay chế độ di cư cũng như phân bố loài đã có những thay đổi được ghi nhận trên toàn thế giới. Nghiên cứu về BĐKH ở châu Âu cho thấy, trong vòng 40 năm qua, mùa sinh trưởng đã sớm hơn trung bình 10 ngày. Sự thay đổi này có thể dẫn đến thay đổi về chuỗi thức ăn và sự không đồng bộ trong hệ sinh thái, điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của những loài có sự phụ thuộc lẫn nhau; ví dụ giữa loài thụ phấn và thực vật được thụ phấn. Biến đổi khí hậu cũng dự báo làm thay đổi phạm vi hoạt động của các sinh vật mang bệnh, khiến chúng tiếp xúc với vật chủ chưa phát triển miễn dịch. Do đó, trong bối cảnh BĐKH, nhiều loài động thực vật hoang dã sẽ phải chịu nhiều áp lực ngày càng tăng do phải thay đổi nơi cư trú, nguồn thức ăn bị thay đổi và thiên tai lũ lụt, hạn hán và mưa bão sẽ diễn ra thường xuyên hơn.

Đa dạng sinh học mang tính quan hệ tương hỗ và những liên kết này có lợi ích to lớn cho các ngành sản xuất như nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, du lịch,... Do đó, trong điều kiện BĐKH, mức độ ĐDSH của các HST bị suy giảm dẫn đến suy giảm chức năng dịch vụ của chúng và suy giảm sản lượng của các ngành sản xuất này. 

Với mật độ dân số cao tại khu vực ven biển của Việt Nam, môi trường sinh thái của các loài này bị tác động và thay đổi đáng kể, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của chúng; nguồn lợi thủy sản và nghề cá, năng suất của ngành thủy sản phụ thuộc vào ĐDSH. Các HST biển Việt Nam là cơ sở duy trì trữ lượng cá biển trên 5,3 triệu tấn và hàng năm có thể đáp ứng khoảng 47% nhu cầu protein của người dân. Trong bối cảnh BĐKH, tiềm năng về đánh bắt hải sản cũng sẽ bị giảm mạnh trong điều kiện nhiệt độ tăng, mực nước biển dâng cao, đại dương nóng lên và axít hóa đại dương. Các loài động vật không xương sống và cá ở biển đều là động vật biến nhiệt, rất nhạy cảm với sự thay đổi nhiệt độ của môi trường xung quanh. Nhiệt độ nước biển tăng cũng làm giảm khả năng hòa tan oxy trong nước, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của các loài thủy sản do hạn chế sự hô hấp. Độ mặn ảnh hưởng đến sự phát triển của các loài hải sản. Các loài thủy sản ưa thích các độ mặn khác nhau. DARA và Diễn đàn Tổn thương Khí hậu ước tính Việt Nam có mức thiệt hại của hoạt động KTTS (bao gồm khai thác biển và nội địa) do BĐKH theo kịch bản phát thải trung bình, tương đương với mức tăng nhiệt độ khoảng 0,5÷0,80C, thì mức thiệt hại vào khoảng 3,25 tỷ USD vào năm 2030 theo mức giá so sánh năm 2010.

Hiện tượng axit hóa đại dương cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến mức độ đa dạng của các hệ sinh thái biển. Tác động lên ĐDSH thể hiện ở chỗ axit hóa sẽ phá hủy các ion cacbonat, là thành phần cấu tạo của nhiều sinh vật đại dương như san hô, sinh vật có vỏ và nhiều sinh vật phù du để hình thành lớp vỏ bao phủ bên ngoài. Dù chưa có nhiều nghiên cứu cụ thể về tác động của quá trình axit hóa đại dương, tuy nhiên những tác động đến quá trình sinh trưởng và phát triển của các loài sinh vật, đe dọa hủy hoại mạng lưới thức ăn chắc chắn sẽ ảnh hưởng mật độ các cá thể, mức độ đa dạng của loài và hệ sinh thái biển nói chung, cũng như các hệ sinh thái san hô.

Bảo vệ bền vững đa dạng sinh học

Theo Liên hợp quốc, các hệ sinh thái trên Trái đất đang tiếp tục suy thoái hoặc biến đổi; ĐDSH đang suy giảm với tốc độ chưa từng có trong lịch sử loài người chạm ngưỡng không thể đảo ngược do sự gia tăng dân số và những áp lực của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là từ hoạt động khai thác và sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Các số liệu do Diễn đàn liên chính phủ Liên hợp quốc về ĐDSH và dịch vụ hệ sinh thái công bố cho thấy thực trạng rất đáng quan ngại: 01 triệu trong tổng số 8 triệu loài động, thực vật trên hành tinh đang bị đe dọa tuyệt chủng; mỗi năm có khoảng 10 triệu ha rừng bị mất kéo theo nhiều loài thực vật bị suy giảm.

Với quyết tâm cao trong hành động, Việt Nam đang đẩy mạnh tái cấu trúc nền kinh tế gắn với phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn nhằm sử dụng hiệu quả và bảo tồn các nguồn tài nguyên, bền vững về môi trường, khí hậu, BVMT sống và sức khoẻ nhân dân. Tuyên bố mạnh mẽ về đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 thể hiện quyết tâm và cam kết chính trị của Việt Nam, khẳng định vị thế, trách nhiệm trong việc giải quyết những thách thức nghiêm trọng của toàn cầu về khí hậu, môi trường, suy giảm của các hệ sinh thái, hướng đến mục tiêu một hành tinh khỏe mạnh. Đồng thời, tận dụng các cơ hội của xu thế thời đại trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo con đường “xanh”, hiện thực hoá mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. Các chủ trương, cam kết chính trị đã và đang tiếp tục được thể chế hóa. Đặc biệt, Luật BVMT năm 2020 với nhiều chính sách, giải pháp đột phá, đánh dấu giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ trong công tác BVMT, hướng tới mục tiêu cao nhất cải thiện chất lượng môi trường, bảo vệ sức khỏe người dân, cân bằng sinh thái, bảo tồn ĐDSH và phát triển kinh tế bền vững. 

Để bảo vệ ĐDSH, cơ quan quản lý, các Bộ, ngành, địa phương cần có sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy và nhận thức về lối sống bền vững hài hòa với thiên nhiên; xây dựng đạo đức, văn hóa, văn minh sinh thái trong ứng xử với tự nhiên; xây dựng bộ tiêu chí văn hóa, lối sống xanh trong toàn xã hội. Tập trung chuyển đổi thành công cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng từ “nâu” sang “xanh”, từ khai thác thâm dụng tài nguyên thiên nhiên sang kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, các-bon thấp; đầu tư cho vốn tự nhiên. Có kế hoạch cụ thể từ các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp để triển khai có hiệu quả cam kết của Chính phủ tại COP26 về chuyển đổi năng lượng từ than sang năng lượng sạch, tái tạo; giảm phát thải khí nhà kính, trong đó có khí mê-tan; sử dụng bền vững tài nguyên đất và nước. Tập trung giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường tại các lưu vực sông chính, các khu, cụm công nghiệp, làng nghề; thúc đẩy phân loại, thu gom chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn; ứng dụng công nghệ tiên tiến trong tái chế, xử lý chất thải rắn, giảm dần việc chôn lấp trực tiếp chất thải; khắc phục, cải thiện tình trạng ô nhiễm, suy thoái tài nguyên đất; Tăng cường các hoạt động phòng chống các loại tội phạm về môi trường, săn bắn và buôn bán động vật hoang dã.

Để chủ động ứng phó với sự suy thoái ĐDSH, bên cạnh việc tiếp tục nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về ĐDSH, các nhà khoa học cho rằng, Việt Nam cần nghiên cứu và chủ động đề xuất các giải pháp giảm đến mức thấp nhất ảnh hưởng, ứng phó và thích nghi với BĐKH. Triển khai giải pháp bảo tồn và phát triển ĐDSH thông qua chính sách cụ thể để thu hút các thành phần trong xã hội tham gia; thành lập khu cứu hộ để bảo vệ các loài có nguy cơ tuyệt chủng cao do sự BĐKH. Thực thi và triển khai có hiệu quả những công ước quốc tế có liên quan tới BĐKH và ĐDSH mà Việt Nam đã ký kết với cộng đồng quốc tế thời gian qua. Ngoài ra, trong kế hoạch bảo tồn ĐDSH quốc gia và các địa phương, cần đặc biệt lưu ý các giải pháp ứng phó phù hợp kịch bản của BĐKH để bảo vệ và duy trì nguồn gien trong các HST nông nghiệp, lâm nghiệp, quản lý bền vững và phát triển rừng đầu nguồn. Xây dựng các phương án phù hợp để chuyển đổi cơ cấu cây trồng với các giống phù hợp (chịu hạn, chịu nhiệt), điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch cho các khu bảo tồn ở vùng đất thấp,... Bộ TN&MT tiếp tục hoàn thiện và cụ thể hóa các chính sách về bảo tồn ĐDSH; tăng cường bảo tồn và phát triển ĐDSH ở cả các cấp độ HST, loài và nguồn gien; đồng thời hạn chế, tiến tới chấm dứt khai thác, buôn bán trái phép và khai thác quá mức tài nguyên sinh vật, nhất là các loài quý, hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng. Thực hiện việc lồng ghép các nội dung bảo tồn ĐDSH trong các chương trình, kế hoạch, dự án của Nhà nước, của các bộ, ngành và các địa phương, cũng như tiếp tục duy trì và tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế trong công tác bảo tồn ĐDSH để thích ứng hiệu quả với BĐKH. Có chính sách phù hợp để đối phó với những thách thức do tác động của con người và những mối đe doạ to lớn do thiên tai gây ra bảo vệ bền vững các HST. Nhiều tổ chức quốc tế đã khuyến cáo các nước trong khu vực là phải tích cực phục hồi, trồng và bảo vệ RNM, rạn san hô và các hệ sinh thái ven biển; kêu gọi các nước, các tổ chức quốc tế hỗ trợ những nước bị thiên tai phục hồi môi trường và cuộc sống của cộng đồng nơi có thảm hoạ.

PHƯƠNG LINH
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 13 (Kỳ 1 tháng 7) năm 2024