
Ảnh minh họa
Phóng viên: Xin ông cho biết, hiện trạng nguồn nước ngầm ở nước ta hiện nay như thế nào?
TS. Triệu Đức Huy: Tại Việt Nam, nước ngầm càng ngày càng có vai trò quan trọng trong phát triển KT-XH. Theo điều tra của Trung tâm Quy hoạch và Điều tra TNN quốc gia, tổng tài nguyên dự báo NDĐ của cả nước khoảng 91 tỷ m3/năm (250,7 triệu m3/ngày), trong đó, nước nhạt khoảng 69 tỷ m3/năm (189,3 triệu m3/ngày). Trữ lượng nước nhạt đã được cấp phép khai thác là 3,6 tỷ m3/năm (9,9 triệu m3/ngày), còn có thể khai thác là 22,3 tỷ m3/năm (61,2 triệu m3/ngày).
Với nguồn nước phong phú như vậy, tỉ lệ sử dụng nước ngầm tương đối lớn. Theo thống kê, lượng NDĐ được khai thác để cấp nước cho đô thị hiện nay chiếm khoảng 40% tổng lượng nước cấp. Phần lớn các đô thị sử dụng nguồn NDĐ đều có công suất khai thác nhỏ, từ 5.000 - 15.000 m3/ngày đến từ 20.000 - 40.000 m3/ngày. Riêng Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, có tổng công suất khai thác lớn hơn (TP. Hà Nội đang khai thác khoảng 1,3 triệu m3/ngày, TP. Hồ Chí Minh khoảng 600 nghìn m3/ngày). Các vùng hiện đang khai thác NDĐ nhiều nhất là Đồng bằng Bắc bộ, Đồng bằng Nam bộ và Nam Trung bộ - Tây Nguyên, đây là các vùng tập trung dân cư và kinh tế phát triển nhất trên toàn quốc. Bên cạnh đó, khoảng 62% người dân nông thôn được cấp nước sạch, hầu hết nguồn cấp nước sinh hoạt nông thôn chủ yếu là NDĐ.
Tuy nhiên, nước ngầm đang chịu những sức ép lớn về suy giảm mực nước/cạn kiệt tầng chứa nước; gia tăng ô nhiễm, nhiễm mặn các tầng chứa nước và sụt lún, biến dạng bề mặt địa hình. Việc khai thác quá mức NDĐ mà không có sự kiểm soát chặt sẽ gây ra một số tác động như: Làm thấp mực NDĐ do việc khai thác nước ngầm tràn lan, không có quy hoạch sẽ làm cho mực nước ngầm tại khu vực cạn kiệt dần và làm thấp mực nước ngầm; ảnh hưởng tới công trình khai thác nước ngầm. Cụ thể, khi một công trình khai thác nước ngầm đi vào hoạt động thì ảnh hưởng của nó sẽ lan rộng khá nhanh tới khu vực xung quanh, tác động tới các công trình khai thác lân cận làm cho mực nước trong các công trình này bị hạ thấp, do vậy sẽ làm tăng chi phí và giảm hiệu suất khai thác của công trình, đồng thời khoảng cách giữa các công trình khai thác càng gần nhau thì mực nước hạ thấp càng nhiều.
So với nước mặt, nước ngầm ít bị ô nhiễm hơn, nhưng đối với các vùng mà lớp phủ trên tầng chứa nước mỏng hoặc có tính thẩm thấu lớn, làm cho nước mặt thấm xuống nhiều cũng rất dễ gây nhiễm bẩn tầng chứa nước. Bên cạnh đó, ở các lỗ khoan có kết cấu cách ly kém, nước bẩn có thể theo thành lỗ khoan thâm nhập vào tầng chứa nước, làm ô nhiễm NDĐ. Cùng với đó, quá trình khai thác nước làm cho mực nước hạ thấp sẽ làm tăng độ dốc thủy lực của dòng thấm cũng có thể làm tăng quá trình ô nhiễm,… Theo đó, khi NDĐ đã bị ô nhiễm thì việc khắc phục rất khó khăn và phức tạp, không những tốn kém kinh phí xử lý mà còn đòi hỏi thời gian khắc phục lâu dài, tốn kém.
Phóng viên: Dự báo tài nguyên nước ở Việt Nam năm 2022 có cải thiện hơn so với những năm trước đây không, thưa ông?
TS. Triệu Đức Huy: Biến đổi khí hậu gia tăng đang gây ra những tác động sâu sắc đến TNN. Việt Nam là một trong năm quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, có khả năng tác động mạnh lên TNN và làm cho những vấn đề vốn rất nghiêm trọng nêu trên đây càng nghiêm trọng hơn, nhiều vấn đề về TNN hiện chỉ tiềm ẩn ở dạng các nguy cơ thì có thể trở thành hiện thực. Năm 2022, do các yếu tố khí hậu gây ra với thời tiết cực đoan, tình trạng hạn hán, thiếu nước cũng sẽ diễn ra ở nhiều nơi và hoạt động khai thác NDĐ gia tăng ở các khu đô thị, trung tâm như Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long.
Phóng viên: Những vấn đề cần cảnh báo về việc khai thác nước ngầm ở nước ta là gì, thưa ông?
TS. Triệu Đức Huy: Một trong những tác động lớn nhất do khai thác nước ngầm ở nước ta hiện nay là vấn đề cạn kiệt NDĐ và gia tăng ô nhiễm NDĐ, nguy cơ xâm nhập mặn và sụt lún nền đất. Các vấn đề trên đã và đang xảy ra, đặc biệt ở nhiều đô thị có hoạt động khai thác nước ngầm lớn như ở: TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Cà Mau, Bạc Liêu,… Việc khai thác nước ngầm ở nhiều nơi chưa hợp lý cả về vị trí, bố trí các công trình cũng như mật độ khai thác, lưu lượng khai thác đã làm mực nước một số nơi suy giảm dẫn đến cạn kiệt NDĐ và mực nước hiện nay ở một số tầng chứa nước khai thác đang bị hạ thấp liên tục theo thời gian. Điển hình như khu vực Hà Nội, mực nước ở các tầng chứa nước khai thác chính tốc độ hạ thấp ghi nhận 0,4 mm/năm, TP. Hồ Chí Minh khoảng 0,6 mm/năm, Cà Mau khoảng 1 m/năm. Bên cạnh đó, chất lượng nước ngầm cũng được Trung tâm giám sát thường xuyên bằng mạng lưới quan trắc cố định cũng như các số liệu quan trắc từ các mạng địa phương và kết quả phân tích giám sát cho thấy chất lượng nước ngầm ở một số khu vực đã phát hiện ra nhiều vấn đề như nhiễm bẩn NDĐ ở nhiều khu đô thị như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Lạng Sơn,… Vấn đề nhiễm mặn NDĐ ở khu vực như: Hải Phòng; Vinh (Nghệ An); Đồng Hới (Quảng Bình); Đồng bằng sông Cửu Long; TP. Hồ Chí Minh.
Phóng viên: Theo ông, cần phải thực hiện những giải pháp cấp bách nào để bảo vệ nguồn nước ngầm?
TS. Triệu Đức Huy: Theo tôi, cần có các giải pháp đồng bộ từ trung ương tới địa phương, tiến hành song song các giải pháp về quản lý và giải pháp về kỹ thuật để quản lý, bảo vệ bền vững nguồn NDĐ.
Giải pháp quản lý: Hoàn thành chính sách pháp luật, chiến lược về TNN; chủ động thích ứng với diễn biến thời tiết cực đoan và việc phụ thuộc vào các quốc gia sử dụng nước ở thượng nguồn; đẩy mạnh công tác quan trắc, giám sát và bảo vệ TNN, đặc biệt là các nguồn nước liên quốc gia; ứng dụng khoa học - công nghệ và các nguồn lực hợp tác quốc tế trong công điều tra, đánh giá và quản lý tài nguyên nước; nâng cao nhận thức cộng đồng về việc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn nước.
Giải pháp kỹ thuật: Xây dựng quy hoạch TNN quốc gia, quy hoạch TNN lưu vực sông liên tỉnh và quy hoạch TNN của tỉnh, thành phố; rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch chuyên ngành có khai thác, sử dụng TNN; tiếp tục và đẩy mạnh về công tác điều tra, tìm kiếm và đánh giá TNN; xây dựng, hoàn thiện mạng lưới quan trắc, cảnh báo và dự báo TNN; nghiên cứu đề xuất các giải pháp sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn nước; tăng cường công tác quản lý và bảo vệ TNN trong điều kiện khô hạn, xâm nhập mặn và biến đổi khí hậu.
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn ông!
Tùng Thư (thực hiện)