Bảo vệ nguồn nước tại các khu công nghiệp

Thứ tư, 18/12/2024, 03:03 (GMT+7)
logo Trước những thách thức lớn về ô nhiễm do chất thải rắn, nước thải, khí thải công nghiệp chứa nhiều hóa chất độc hại, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường tự nhiên và đời sống của người dân tại nhiều địa phương thì việc đưa ra các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước thải tại các khu công nghiệp đang là vấn đề cấp thiết hiện nay.

Bảo vệ nguồn nước tại các khu công nghiệp

Báo động tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng

Theo thống kê, hiện các địa phương có số lượng khu công nghiệp (KCN) lớn như: TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Long An, Quảng Ninh, Bắc Ninh,... 191/244 KCN có trạm quan trắc tự động, chiếm 78,3%. Có 276 cụm công nghiệp (CCN) có báo cáo đánh giá tác động môi trường, 160 CCN có hệ thống tách nước mưa và nước thải, 109 CCN có hệ thống xử lý nước thải tập trung, đạt 15,8%, 10 CCN có hệ thống quan trắc tự động nước thải.

Nhiều địa phương đã chú trọng lựa chọn, thu hút các dự án công nghệ cao, dự án có tỉ lệ đầu tư về môi trường lớn, một số địa phương đã bước đầu thực hiện việc phòng ngừa, kiểm soát ONMT trong quá trình thu hút đầu tư thông qua việc lựa chọn những ngành nghề, dự án đầu tư có hàm lượng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, công nghệ sạch. Tuy nhiên, việc xử lý nước thải tại nhiều KCN còn nhiều bất cập.

Theo số liệu thống kê của Bộ TN&MT, tỷ lệ các KCN có trạm xử lý nước thải tập trung chỉ chiếm 66%, nhiều KCN đã đi vào hoạt động mà chưa triển khai xây dựng hệ thống xử lý nước thải hoặc có nhưng không vận hành, hay vận hành không hiệu quả hoặc xuống cấp. Trong khi đó, theo ước tính có khoảng 70% trong số hơn một triệu mét khối nước thải hằng ngày, đêm phát sinh từ các KCN được xả thẳng ra nguồn tiếp nhận mà không qua xử lý.

Trong những năm qua, việc BVMT KCN vẫn là một vấn đề nóng được xã hội quan tâm. Với tốc độ phát triển kinh tế nhanh hiện nay, số lượng các KCN được thành lập để thực hiện thu hút các dự án đầu tư công nghiệp đang ngày càng gia tăng. Điều này, tạo thêm nhiều áp lực cho môi trường. Các quy định về BVMT được ban hành đã góp phần cải thiện đáng kể công tác BVMT tại các KCN. Tuy nhiên, hiện một số KCN thực hiện chưa tốt công tác BVMT, gây ONMT trong quá trình hoạt động, làm ảnh hưởng xấu đến cộng đồng dân cư sống tại khu vực lân cận. Nguyên nhân gây nên tình trạng ONMT tại các KCN có thể đó là: Việc quy hoạch phát triển các KCN tại một số địa phương còn thực hiện tràn lan trong khi khả năng thu hút nguồn vốn đầu tư thấp, năng lực tài chính còn hạn chế dẫn đến việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng còn hạn chế. Các KCN chưa có sự ưu tiên xây dựng hệ thống xử lý chất thải, một số KCN thậm chí còn không có hệ thống xử lý rác thải mà đổ trực tiếp ra môi trường.

Các chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm BVMT theo quy định của pháp luật. Nhận thức về BVMT của các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong KCN còn hạn chế, nhiều chủ cơ sở hiểu chưa rõ, chưa chính xác và thậm chí không cập nhật các quy định của pháp luật hiện hành trong công tác BVMT.

Trong thời gian qua, Kiểm toán nhà nước đã thực hiện nhiều cuộc kiểm toán về hoạt động quản lý và xử lý nước thải, chất thải các KCN. Các cuộc kiểm toán đã chỉ ra hàng loạt những bất cập, yếu kém trong hoạt động quản lý và xử lý nước thải, gây tác động xấu đến môi trường. Theo đó, một trong những kẽ hở hiện nay là hệ thống văn bản pháp lý chưa thống nhất giữa Luật Đầu tư và Luật BVMT về quy định liên quan đến báo cáo đánh giá tác động môi trường khi cấp giấy phép đầu tư. Bên cạnh đó, hiện chưa có quy định quản lý và hướng dẫn thống nhất về vị trí xây dựng hồ điều hòa tại các dự án xử lý nước thải công nghiệp tập trung. Do đó, việc triển khai xây dựng hồ điều hòa và lắp đặt trạm quan trắc tự động chưa thống nhất giữa các KCN. Việc lắp đặt hệ thống quan trắc tự động sau hồ điều hòa có dung tích lớn có thể dẫn đến việc nước thải sau khi xử lý có thể được pha loãng, đặc biệt là khi trời mưa to trong thời gian dài, khi đó kết quả quan trắc nước thải có thể không phản ánh chính xác kết quả chất lượng nước thải sau khi xử lý của hệ thống xử lý nước thải tập trung.

Việc quy hoạch phát triển các KCN tại một số địa phương còn thực hiện tràn lan trong khi khả năng thu hút nguồn vốn đầu tư thấp, năng lực tài chính còn hạn chế dẫn đến việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng còn hạn chế. Các KCN chưa có sự ưu tiên xây dựng hệ thống xử lý chất thải, một số KCN thậm chí còn không có hệ thống xử lý rác thải mà đổ trực tiếp ra môi trường.

Các chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm BVMT theo quy định của pháp luật. Nhận thức về BVMT của các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong KCN còn hạn chế, nhiều chủ cơ sở hiểu chưa rõ, chưa chính xác và thậm chí không cập nhật các quy định của pháp luật hiện hành trong công tác BVMT.

Nhiều doanh nghiệp đã xây dựng hệ thống xử lý chất thải, cam kết BVMT nhưng lại không thực hiện nghiêm túc dẫn đến tình trạng ô nhiễm trầm trọng hơn. Ban quản lý môi trường tại các địa phương chưa có sự quan tâm đầy đủ đến vấn đề này. Hầu hết Ban quản lý, KCN mới chỉ tập trung vào những vấn đề thu hút đầu tư, chưa quan tâm đến công tác quản lý môi trường KCN. Các công tác thanh tra giám sát còn chưa hiệu quả, các cơ quan còn chậm trễ trong việc kiểm soát và đôn đúc các chủ doanh nghiệp trong BVMT. 

Những giải pháp khả thi

Để đẩy mạnh công tác quản lý nước thải tại các KCN, cần sớm sửa đổi các văn bản Luật. Trong đó, quan tâm sửa đổi, bổ sung một số nhóm cơ chế, chính sách: Quy hoạch BVMT có tính đến yếu tố BVMT KCN; khuyến khích doanh nghiệp thực hiện sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng, tuần hoàn tái sử dụng nước thải, không thải chất thải ra môi trường; xây dựng hệ thống tiêu chí về môi trường phục vụ lựa chọn loại hình, công nghệ sản xuất, bảo đảm giảm thiểu nguy cơ gây ONMT; rà soát, đánh giá, điều chỉnh công cụ kinh tế, thuế, phí về môi trường đang áp dụng cho phù hợp với nguyên tắc thị trường; huy động nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng BVMT, hiện đại hóa công nghệ sản xuất, cộng sinh công nghiệp,... Bên cạnh đó, các bộ, ngành liên quan cần thực hiện rà soát, sửa đổi một số luật có liên quan, như: Luật Xử phạt vi phạm hành chính, Luật Thanh tra, Luật Tài nguyên nước, Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Luật Thuế BVMT, Luật Đầu tư,... để phát huy hiệu lực, hiệu quả của các quy định trong Luật BVMT.

Ngoài việc hoàn thiện các chính sách, pháp luật về BVMT, cần tập trung tổ chức lập quy hoạch BVMT cho giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và các quy hoạch cấp tỉnh, bao gồm quy hoạch phát triển các KCN. Tăng cường quan trắc môi trường, cảnh báo ONMT tại các khu vực tập trung nhiều KCN. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm; sớm khắc phục tình trạng vi phạm. Áp dụng chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với KCN không tuân thủ quy định về BVMT.

Bảo đảm việc thành lập và phát triển KCN tuân thủ đúng với quy hoạch đã được cấp thẩm quyền phê duyệt; kiên quyết không cho mở rộng KCN hiện có, hoặc đầu tư thêm các KCN mới tại địa phương khi còn KCN có tỷ lệ lấp đầy thấp; không cấp giấy phép đầu tư cho các dự án thứ cấp khi KCN chưa có hạ tầng kỹ thuật về BVMT.

Cân đối nguồn lực để hỗ trợ nhà đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài KCN; có chính sách khuyến khích nhà đầu tư và huy động các nguồn vốn hợp pháp khác để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN trong đó có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Tăng cường nguồn vốn hoạt động cho Quỹ BVMT Việt Nam theo hướng đầu tư, xây dựng công trình BVMT KCN tại địa phương có điều kiện KT-XH khó khăn. Tổ chức thực hiện chính sách phát triển KCN sinh thái tại địa phương. Giám sát chặt chẽ việc phát sinh chất thải từ các KCN và các nguồn thải có nguy cơ gây ONMT cao từ các KCN.

Hướng dẫn, yêu cầu chủ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN trong việc tuân thủ và thực hiện đầy đủ các biện pháp, cam kết về BVMT; tăng cường hợp tác trong nước, quốc tế nhằm trao đổi kinh nghiệm quản lý, BVMT KCN; huy động các nguồn vốn đầu tư, vốn viện trợ quốc tế để thực hiện các giải pháp phát triển bền vững KCN, trong đó tập trung nhân rộng mô hình KCN sinh thái. Đồng thời, tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BVMT; có các giải pháp huy động sự tham gia của cộng đồng vào công tác BVMT và khuyến khích xã hội hóa hoạt động BVMT.

HÀ ANH
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 16 (Kỳ 2 tháng 8) năm 2024