Bảo vệ, sử dụng tiết kiệm nguồn nước dưới đất đảm bảo cấp cho sinh hoạt

Thứ hai, 4/10/2021, 12:23 (GMT+7)
logo Nước dưới đất là nguồn tài nguyên tái tạo có vai trò rất quan trọng trong đời sống. Để khai thác có hiệu quả bền vững tài nguyên nước, đặc biệt đảm bảo chất lượng nguồn nước, đáp ứng tiêu chuẩn cấp nước cho ăn uống, sinh hoạt để bảo vệ sức khỏe cộng đồng, việc lựa chọn nguồn nước khai thác phải đưa vấn đề chất lượng nguồn nước lên hàng đầu.

Bảo vệ, sử dụng tiết kiệm nguồn nước dưới đất đảm bảo cấp cho sinh hoạt

Ảnh minh họa   

Do đó, trong việc xem xét lựa chọn nguồn nước mặt hay nước dưới đất phải xem xét hết các ưu điểm, nhược điểm của từng nguồn nước và các biện pháp khắc phục các nhược điểm, cần hết sức quan tâm tới sử dụng kết hợp cả hai nguồn trong hệ thống cấp nước, đặc biệt trong các vùng nguồn nước mặt dễ bị nhiễm mặn và ô nhiễm.

Nguồn nước dưới đất (NDĐ) thường có chất lượng ổn định, ít bị tác động bởi các tác nhân gây ô nhiễm từ trên mặt đất và được xem là nguồn tài nguyên quý giá, cần được bảo vệ, sử dụng tiết kiệm và để dự phòng, chỉ sử dụng cho sinh hoạt hoặc các mục đích mang lại giá trị kinh tế cao (cấp nước cho sản xuất của các khu, cụm công nghiệp; cấp nước phục vụ mục đích kinh doanh, dịch vụ). Theo kết quả điều tra, đánh giá, nước ta có tiềm năng khá lớn về nguồn NDĐ, với tổng trữ lượng nước ngọt khoảng 189,3 triệu m3/ngày đêm, trong đó trữ lượng có thể khai thác khoảng 61,2 triệu m3/ngày đêm. Tuy nhiên, NDĐ phân bố không đều, chỉ có thể tập trung khai thác chủ yếu tại Đồng bằng Bắc Bộ, Đồng bằng Nam Bộ và khu vực Tây Nguyên.

Hiện nay, tổng lưu lượng khai thác NDĐ trên cả nước khoảng 10,5 triệu m3/ngày đêm, chiếm khoảng 17,2% trữ lượng có thể khai thác, trong đó chủ yếu cấp nước sinh hoạt tại các đô thị, sinh hoạt nông thôn và cấp nước cho sản xuất trong các khu, cụm công nghiệp,… ngoài ra, một số vùng còn khai thác để tưới cà phê, cây công nghiệp (Tây Nguyên) hoặc nuôi trồng thủy sản, nuôi tôm trên cát (một số tỉnh ven biển miền Trung, bán đảo Cà Mau,…).

Xét về tổng thể, việc khai thác NDĐ ở nước ta đang bị mất cân bằng do việc quá tập trung khai thác tại các khu vực đô thị. Theo số liệu quan trắc từ năm 1990 đến nay, nguồn NDĐ ở nước ta đang bị suy thoái cả về số lượng và chất lượng: Mực NDĐ bị hạ thấp sâu, liên tục theo thời gian tại Đồng bằng Bắc Bộ, Đồng bằng Nam Bộ và Tây Nguyên, đặc biệt là tại một số đô thị (TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, các thành phố: Cà Mau, Sóc Trăng, Buôn Mê Thuột,…) tập trung khai thác nguồn NDĐ. Việc khai thác nước tập trung quy mô lớn ngoài việc dẫn đến hạ thấp mực nước sâu còn là nguyên nhân gây ra tình trạng xâm nhập mặn, ô nhiễm nguồn nước (vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), vùng ven biển miền Trung) và có thể là nguyên nhân gây ra tình trạng sụt lún bề mặt đất (Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, vùng ĐBSCL).

Trước khi có Nhà máy nước mặt sông Đà, gần 100% lượng nước (628.400 m3/ngày đêm) cấp cho TP. Hà Nội được lấy từ nguồn NDĐ và kể từ năm 2010 trở về trước khoảng 32,4% lượng nước (khoảng 694.800 m3/ngày đêm) cấp cho TP. Hồ Chí Minh được lấy từ nguồn NDĐ. Tuy nhiên, với lượng khai thác NDĐ lớn, bố trí các bãi giếng khai thác chưa thật hợp lý đã gây hạ thấp mực nước quá mức trong một số tầng chứa nước, ở một số khu vực. Do vậy, TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh đã và đang dần điều chỉnh việc cấp nước, trong đó dần thay thế các công trình khai thác NDĐ bằng các công trình khai thác nguồn nước mặt để cấp nước đô thị, một số công trình khai thác NDĐ được điều chỉnh giảm lưu lượng hoặc chuyển đổi thành công trình dự phòng để cấp nước an toàn.

Để khai thác bền vững nguồn NDĐ trước hết, cần quy hoạch khai thác hợp lý, điều chỉnh phương án khai thác hiện tại cho phù hợp, đảm bảo tổng lượng khai thác không vượt quá trữ lượng của NDĐ, không vượt ngưỡng giới hạn khai thác an toàn.

Về pháp lý, hệ thống pháp luật của chúng ta có những quy định khá đầy đủ liên quan đến việc bảo vệ NDĐ, tuy nhiên việc triển khai, thực thi ở các địa phương còn tương đối hạn chế. Ngay từ Luật Tài nguyên nước năm 1998, vấn đề bảo vệ NDĐ đã được chú trọng, Bộ TN&MT đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến việc bảo vệ NDĐ (Quyết định số 14/2007/ QĐ-BTNMT về trám lấp giếng khoan không sử dụng; Quyết định số 15/2008/QĐ-BTNMT quy định về bảo vệ NDĐ). Sau khi Luật Tài nguyên nước năm 2012 được Quốc hội thông qua, Bộ đã ban hành theo thẩm quyền nhiều văn bản nhằm tăng cường công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên NDĐ (Thông tư số 74/2017/ TTBTNMT quy định về xử lý, trám lấp giếng khoan không sử dụng; Thông tư số 75/2017/TT-BTNMT quy định bảo vệ NDĐ trong các hoạt động khoan, đào, thăm dò, khai thác NDĐ,…). Đặc biệt, trong năm 2018, Bộ TN&MT đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 167/2018/ NĐ-CP quy định việc hạn chế khai thác NDĐ, trong đó, quy định các địa phương tổ chức khoanh định, công bố Danh mục các vùng hạn chế khai thác NDĐ và áp dụng các biện pháp hạn chế khai thác tại các khu vực NDĐ có nguy cơ bị ô nhiễm, xâm nhập mặn, hạ thấp mực nước quá mức, sụt lún đất,… nhằm bảo vệ, khai thác hợp lý, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc khai thác NDĐ.

Bên cạnh đó, để hạn chế việc hạ thấp mực nước quá mức trong các tầng chứa nước, Nghị định có những quy định cụ thể ngưỡng giới hạn về mực NDĐ tại các khu vực (đối với TP. Hồ Chí Minh là không vượt quá 40 m và không vượt quá 35 m tại các khu vực đô thị vùng ĐBSCL; không vượt quá 35 m đối với khu vực nội thành TP. Hà Nội và các thành phố, thị xã khác,…), trên cơ sở đó, khoanh định các vùng có mực nước đã vượt quá ngưỡng giới hạn (Vùng hạn chế 2) và điều chỉnh giảm lưu lượng phù hợp đối với các công trình khai thác NDĐ trong các vùng đó. Ngưỡng giới hạn về mực nước quy định trong Nghị định số 167/2018/NĐ-CP cũng được sử dụng làm căn cứ để các cơ quan xem xét, thẩm định hồ sơ, quy định giới hạn mực nước động tối đa cho phép hạ thấp đối với các công trình được cấp phép khai thác NDĐ.

Việc triển khai thực hiện tốt Nghị định sẽ đáp ứng mục tiêu kép là đảm bảo việc khai thác hợp lý nguồn NDĐ để phục vụ cấp nước sinh hoạt trong các khu đô thị, đồng thời, bảo vệ nguồn NDĐ tránh khỏi nguy cơ ô nhiễm, suy thoái, sụt lún bề mặt đất.

Ngoài ra, Bộ TN&MT đã xây dựng, trình Chính phủ phê duyệt và tổ chức triển khai thực hiện các Đề án Chính phủ như: “Đề án bảo vệ NDĐ đô thị lớn” đã hoàn thành giai đoạn I và đang tiếp tục triển khai giai đoạn II; “Đề án điều tra, đánh giá việc khai thác, sử dụng NDĐ, tác động đến sụt lún bề mặt đất khu vực TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, ĐBSCL” đang được triển khai thực hiện. Trên cơ sở kết quả thực hiện Đề án đề xuất định hướng quản lý, khai thác, sử dụng bền vững, bảo vệ nguồn tài nguyên NDĐ.

Trong thời gian tới, để bảo vệ, khai thác cân bằng, hợp lý nguồn NDĐ cần tập trung một số giải pháp như sau:

Một là, tổ chức triển khai mạnh mẽ, có hiệu quả các văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ NDĐ, trong đó, các địa phương cần sớm hoàn thành việc khoanh định, công bố Danh mục vùng hạn chế khai thác NDĐ và tổ chức triển khai thực hiện, hoàn thành trước tháng 2/2022 như quy định của Nghị định số 167/2018/NĐ-CP; tăng cường công tác quy hoạch, điều tra cơ bản NDĐ, quan trắc, giám sát, cảnh báo, dự báo về tài nguyên NDĐ.

Hai là, nghiên cứu, thử nghiệm, ứng dụng các công nghệ phát triển nguồn nước, nhất là bổ sung nhân tạo NDĐ (vấn đề này còn khá mới, ở nước ta mới có một số nghiên cứu thử nghiệm như: Nghiên cứu thử nghiệm bổ sung nhân tạo NDĐ tại đảo Quan Lạn - Quảng Ninh; nghiên cứu thử nghiệm công nghệ bổ sung nhân tạo NDĐ Bhungroo của Ấn Độ ở huyện Tân Phước - Tiền Giang và một số huyện của tỉnh Bến Tre,...).

Ba là, nghiên cứu giải pháp khai thác kết hợp cả nguồn nước mặt, NDĐ để cấp nước ở các đô thị hay ở các vùng bị xâm nhập mặn theo mùa, vừa phát huy tối đa hiệu quả sử dụng của các nguồn nước, đảm bảo an ninh nguồn nước cấp cho sinh hoạt, nhất là vùng ĐBSCL.

 

     ThS. THANH TÂM

          Cục Quản lý Tài nguyên nước