news

Bến Tre triển khai nhiều giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu

Thứ ba, 4/1/2022, 15:14 (GMT+7)
logo Bến Tre nằm ở cuối nguồn sông Cửu Long và tiếp giáp Biển Đông, địa hình thấp và bị chia cắt bởi 4 con sông lớn là: Sông Mỹ Tho, sông Ba Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên. Với điều kiện địa lý như trên, theo Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu, Bến Tre là một trong những địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi tác động của biến đổi khí hậu, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và đời sống của người dân.

Bến Tre triển khai nhiều giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu

Giải pháp kè mềm hạn chế sạt lở bờ sông trên địa bàn tỉnh Bến Tre.

Tỉnh Bến Tre xếp thứ 8 trong số 63 tỉnh, thành phố của cả nước bị rủi ro cao bởi tình trạng BĐKH. Ảnh hưởng BĐKH qua đợt nắng nóng kéo dài, nhiệt độ tăng, nước biển dâng cao, nước mặn theo các cửa sông chính xâm nhập sâu vào đất liền, nước ngọt phục vụ sinh hoạt thiếu trên diện rộng, nhiều vườn cây ăn trái đặc sản của tỉnh bị xâm nhập mặn (XNM) uy hiếp, báo động nguy cơ xảy ra ONMT, nguồn nước.

Hiện nay, tác động của BĐKH đối với Bến Tre với các biểu hiện thời tiết, khí hậu cực đoan xuất hiện ngày càng nhiều, hạn hán, lũ lụt, nhất là gia tăng tần suất và cường độ các cơn bão. Theo báo cáo của Trung tâm KTTV tỉnh, lượng mưa hàng năm biến động thất thường, tập trung nhiều vào mùa mưa. Trong mùa khô, lượng mưa tăng, giảm không rõ rệt, có xu hướng giảm nhiều hơn. Cường độ mưa, với những đợt mưa lớn nhiều hơn, dẫn đến ngập lụt tăng, nhất là khu vực ven biển, khu đô thị. Các đợt không mưa kết hợp nắng nóng, hạn trong mùa khô, thậm chí ngay cả trong mùa mưa cũng xảy ra nhiều hơn. Lượng mưa ít, nước biển dâng cao hơn, nước mặn xâm nhập sâu vào đất liền. Những năm gần đây, độ mặn 1‰ xâm nhập nhiều nơi trên địa bàn tỉnh Bến Tre. Nguyên nhân chính ảnh hưởng đến mức độ XNM là do ảnh hưởng của BĐKH làm cho dòng chảy kiệt trên sông Tiền, ở mức thấp, thủy triều Biển Đông lên cao vào những ngày mùa khô. Các đợt triều cường tăng ở mức cao, kết hợp gió mùa làm gia tăng độ sóng biển,... gây sạt lở khu vực ven sông, ven biển. Qua thống kê, đến cuối năm 2018, trên toàn tỉnh Bến Tre có 104 điểm sạt lở bờ sông, 8 điểm sạt lở bờ biển với chiều dài 19,4 km. Hằng năm, hơn 100.000 m2 đất thổ cư, đất vườn trên cồn và các xã ven sông của tỉnh bị sạt lở khiến hơn 1.300 hộ đã bị mất đất, đời sống khó khăn, phải tạm cư nơi khác. Sạt lở lấn sâu vào trong đất liền trung bình hằng năm từ 10-15 m, làm mất hơn 120 ha đất và 54 ha rừng phòng hộ ven biển.

Theo dự báo của cơ quan KTTV, thời gian tới đây, tình trạng nước biển xâm nhập vào đất liền sẽ gia tăng, làm tăng độ mặn ở các con sông và nước ngầm. Do sự gia tăng mực nước biển, độ mặn ảnh hưởng đến chất lượng nước uống, đến phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, với nhiều loại cây trồng, các loài thủy, hải sản khác nhau.

Để chủ động ứng phó BĐKH, ổn định sản xuất và đời sống của người dân trên địa bàn, Bến Tre đang thực hiện đồng bộ các giải pháp. Trong đó, tập trung mọi nguồn lực để khắc phục những điểm sạt lở xung yếu, khôi phục hàng chục hecta rừng, góp phần hạn chế kịp thời sạt lở, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân. Tỉnh hoàn thành lắp đặt, vận hành thử nghiệm và đưa vào hoạt động hệ thống quan trắc môi trường, cảnh báo mặn tự động trong năm nay. Đồng thời, đánh giá hiệu quả các mô hình sinh kế thích ứng BĐKH thí điểm và chọn mô hình tiềm năng phát triển kinh tế. Ông Nguyễn Văn Chinh, Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Bến Tre cho biết, công tác truyền thông nâng cao nhận thức về ứng phó với BĐKH luôn được các cấp, ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quan tâm thực hiện. Trong đó, nòng cốt là Sở TN&MT phối hợp với các ngành hữu quan và chính quyền địa phương tập huấn kiến thức BĐKH, BVMT cho hơn 200 cán bộ, với khoảng 6.355 lượt đoàn viên, thanh niên, học sinh và 23.783 hội viên nông dân được truyền thông. Bên cạnh đó, dự án xây dựng hệ thống quan trắc dự báo độ mặn và giám sát chất lượng nước tự động đang được đẩy nhanh tiến độ hoàn thành để kịp thời phục vụ nhân dân. Tỉnh Bến Tre đang tập trung thực hiện hoàn thành các dự án mang tính khả thi đối với địa phương trong ứng phó với BĐKH.

PHƯƠNG LINH