Cần làm gì để có được tín chỉ carbon Việt Nam chất lượng?

Thứ tư, 20/3/2024, 13:55 (GMT+7)
logo Ngân hàng Thế giới thống kê, cuối năm 2022, thị trường carbon toàn cầu có quy mô khoảng 92 tỷ USD và đang tăng với tốc độ rất nhanh. Với diện tích rừng 14,79 triệu ha, tỷ lệ che phủ ở mức hơn 42%, Việt Nam nằm trong số 60 quốc gia trên thế giới có khả năng bán tín chỉ carbon từ rừng.

Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB), thông qua Cơ chế REDD+ (Cơ chế: Giảm phát thải từ mất rừng và suy thoái rừng), một số tổ chức quốc tế ký kết với chính quyền địa phương hoặc quốc gia để chi trả tài chính nhằm hạn chế nạn phá rừng và phục hồi rừng. Tổng giá trị của thị trường carbon từ rừng toàn cầu được chi trả năm 2023 đạt xấp xỉ 2 tỷ USD và tất cả đều thông qua Cơ chế REDD+.

nước ta có thể bán khoảng 40 triệu tín chỉ carbon mỗi năm. Với đơn giá 5 USD/tín chỉ, ngành lâm nghiệp ước

Việt Nam có thể bán khoảng 40 triệu tín chỉ carbon mỗi năm

Trong vòng 3 năm gần đây, mỗi năm tổng chi phí chi trả cho tín chỉ hấp thụ carbon rừng đều tăng trưởng 10%. Giá trung bình mỗi tín chỉ hấp thụ carbon từ rừng hiện đang dao động khoảng từ 1,62 - 8,99 USD/tấn, nhưng phần lớn được các tổ chức quốc tế chi trả ở mức 5 USD/tấn. Dự kiến đến năm 2030, tổng giao dịch tín chỉ hấp thụ carbon từ rừng đạt khoảng 20 tỷ USD (gấp 10 lần so với 2021) và mức chi trả giao động từ khoảng 20 - 50 USD/tấn.
Hiện nay, trên thế giới, tổ chức dẫn đầu triển khai Cơ chế REDD+ là WB. Cụ thể, hiện WB đang ký kết với 15 quốc gia đang phát triển (trong đó có Việt Nam), giá chi trả trung bình cho mỗi tấn hấp thụ carbon rừng là 5 USD, trong đó khoảng 95% số tín chỉ thu được sẽ được tính vào Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của quốc gia đó, 5% số tín chỉ còn lại sẽ do WB nắm giữ. Vừa qua, theo ký kết với WB, lần đầu tiên Việt Nam chính thức bán 10,3 triệu tín chỉ carbon rừng với giá 5 USD/tín chỉ, dự kiến thu về 51,5 triệu USD. Trong đó, năm 2023 là năm đầu tiên Việt Nam nhận được tiền chi trả là 41,2 triệu USD và đã giải ngân toàn bộ để các tỉnh lập kế hoạch chi trả cho các chủ rừng thuộc 6 tỉnh Bắc Trung Bộ gồm: Nghệ An, Quảng Bình, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, và Quảng Trị.

Việt Nam có khoảng 14 triệu ha rừng, trong số đó có gần một nửa là rừng sản xuất. Giám đốc Quỹ Vinacarbon, ông Nguyễn Ngọc Tùng cho biết: tiềm năng tạo tín chỉ carbon từ các doanh nghiệp ngành gỗ để bù đắp cho các ngành công nghiệp khác tại Việt Nam nhằm giúp quốc gia đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 là rất lớn, do cây có tính năng hấp thụ carbon trong khí quyển và lưu trữ trong gỗ, hoặc có thể thay thế nhiên liệu hóa thạch bằng cách sử dụng như một nguồn năng lượng tái tạo. Ngoài ra, ở một số lĩnh vực, gỗ có thể được sử dụng thay thế cho các vật liệu phát thải cao khác như bê tông, nhựa...

Nếu các doanh nghiệp ngành gỗ nhận thức được việc đầu tư phát triển bền vững, giảm phát thải là xu thế tất yếu và cần thiết phải thực hiện thì nguồn thu của doanh nghiệp không chỉ đến từ các hoạt động chế biến gỗ và lâm sản mà còn từ tín chỉ carbon. Chẳng hạn, hoạt động trồng rừng gỗ lớn cần đầu tư ban đầu nhiều thời gian và chi phí, tuy nhiên hiệu quả kinh tế từ sản phẩm lâm nghiệp sẽ cao hơn từ 3-4 lần. Ngoài ra, tuổi thọ cây kéo dài cũng giúp doanh nghiệp có thêm doanh thu từ tín chỉ carbon...

Thông tin từ Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP.HCM (HAWA), ông Phùng Quốc Mẫn, Phó chủ tịch cho biết: 2 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam đã có dấu hiệu tăng trưởng tích cực và dự kiến năm nay, ngành gỗ Việt Nam sẽ phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu 16 tỷ USD. Năm 2023 kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam chỉ đạt 14,5 tỷ USD so với 15,8 tỷ USD năm 2022.
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu trên, các doanh nghiệp ngành gỗ cần hiểu rõ, đáp ứng và mở rộng các thị trường xuất khẩu, tận dụng các cơ hội từ nhiều phía để tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp, trong đó có vấn đề tài chính carbon và thị trường carbon. Bởi vấn đề tài chính xanh và thị trường carbon không xa lạ với các nước phát triển, nhưng lại là vấn đề hoàn toàn mới mẻ tại Việt Nam nói chung và ngành gỗ nói riêng.

Có thể thấy, sự quan tâm của các tổ chức quốc tế cho các dự án carbon nói chung và các dự án carbon từ ngành gỗ nói riêng tại Việt Nam là rất lớn. Tuy nhiên, để thu hút đầu tư và tận dụng nguồn vốn của các quỹ đầu tư, theo ông Tùng, các doanh nghiệp ngành gỗ cần phải chủ động và tích cực trong quá trình “xanh hóa”, từ việc ban lãnh đạo cần thiết phải nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển bền vững, thiết lập các bộ phận chuyên trách và sẵn sàng thay đổi cách tiếp cận, quản lý cho phù hợp với một dự án tạo tín chỉ carbon.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần nâng cao năng lực cạnh tranh, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ để nâng cao năng suất lao động, chuyển đổi số để giảm chi phí sản xuất; tăng cường quảng bá thương hiệu và chất lượng sản phẩm và xây dựng các khu công nghiệp chế biến tập trung quy mô lớn…

Cục Lâm nghiệp đã tính toán trên diện tích rừng hiện nay, nước ta có thể bán khoảng 40 triệu tín chỉ carbon mỗi năm. Với đơn giá 5 USD/tín chỉ, ngành lâm nghiệp ước thu về 200 triệu USD, tương đương gần 5.000 tỷ đồng.
Trong khi, ông Lê Văn Thanh, Phó Giám đốc Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam thì ước tính giai đoạn 2021-2030, nước ta sở hữu khoảng 40-70 triệu tín chỉ carbon rừng mỗi năm có thể bán cho cho thị trường tín chỉ carbon thế giới. Làm tốt, trong tương lai Việt Nam có thể thu về hàng chục nghìn tỷ đồng từ chuyển nhượng tín chỉ carbon rừng. Quan trọng hơn, môi trường sinh thái của Việt Nam sẽ ngày càng tốt hơn nhờ vào việc giữ rừng, phát triển rừng để Việt Nam đạt được mục tiêu đưa mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050 như đã cam kết tại COP26.

Một số tổ chức quốc tế, công ty nước ngoài đã tiếp cận, đề xuất với Việt Nam để đàm phán mua bán, trao đổi, chuyển nhượng tín chỉ carbon từ rừng. Ông Thanh dẫn chứng, Việt Nam dự kiến chuyển nhượng 5,15 triệu tín chỉ carbon rừng khu vực Tây Nguyên và Nam Trung Bộ giai đoạn 2022-2026 với đơn giá là 10 USD/tấn C02. Bộ NN&PTNT đang chuẩn bị các tài liệu, điều kiện để tiến hành đàm phán và đi đến ký kết thỏa thuận của chương trình này. Ngoài ra, nhiều địa phương cũng đã chủ động xây dựng đề án, đề xuất Thủ tướng Chính phủ cho phép thí điểm dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng.

Song, để bán được tín chỉ carbon với giá cao thì phải nâng chất lượng tín chỉ carbon từ rừng. Không chỉ đơn thuần là làm tăng khả năng hấp thụ, mà còn cần cải thiện điều kiện làm việc của những người thực hiện công tác bảo tồn, bảo vệ; liên quan đến các tiêu chí về kinh tế, xã hội và môi trường bền vững.

Tại Việt Nam, quy mô thị trường hiện khoảng 2 tỷ USD và tín chỉ carbon đang chủ yếu được bán trên cơ sở chương trình REDD+ (một chương trình quốc tế về giảm khí thải do phá rừng và suy thoái rừng).

PGS.TS Nguyễn Đình Thọ – Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường

PGS.TS Nguyễn Đình Thọ – Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường

Theo PGS.TS Nguyễn Đình Thọ - Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, đối với chương trình này, trên thế giới đang giao dịch chỉ từ 1.6 - 8.9 USD/tín chỉ carbon. Do đó, Việt Nam vừa qua bán 5 USD là mức giá trung bình, không phải thấp.
Giải thích về mức giá này, ông Thọ cho biết là nhờ sự hỗ trợ từ phía WB. Chi phí này thực tế tương đương với chi phí thực hiện thẩm định theo tiêu chuẩn của các tổ chức quốc tế, rơi vào tầm khoảng từ 3 - 6 USD, nên để kiếm tiền từ việc bán tín chỉ carbon rừng trên thực tế không hề đơn giản.
Đồng quan điểm, Tiến sĩ Vũ Tấn Phương - Giám đốc Văn phòng Chứng chỉ Quản lý rừng bền vững (VFCO), Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam cho rằng đối với chương trình Bắc Trung bộ, đây không phải chỉ là mua bán thuần túy.

“Chúng ta chuyển nhượng cho quỹ carbon do WB quản lý, chỉ với 5 USD/tín chỉ nhưng toàn bộ đầu tư từ xây dựng dự án cho đến lúc thẩm định dự án và ra kết quả bán là tiền của WB”, ông Phương nói.

Quyền carbon trong quỹ carbon chỉ là 5% trên 10.3 triệu tấn và số còn lại vẫn thuộc về Việt Nam. Số lượng đó được coi là đóng góp của Việt Nam đối với mục tiêu giảm phát thải của quốc gia. Nếu chỉ là mua bán thuần túy, thì quyền carbon đó sẽ tính hoàn toàn cho bên mua, như vậy thì giá trị chuyển nhượng khi đó có thể lên đến 100 USD/tín chỉ.
Chia sẻ thêm, ông Phương cho rằng lâm nghiệp là ngành đặc thù và Việt Nam đã có rất nhiều nỗ lực trong việc bảo vệ, phục hồi cũng như phát triển rừng, đồng thời đã nâng độ che phủ rừng từ 28% năm 1995 lên khoảng 42% hiện nay, tức khoảng 14.7 triệu ha, trong đó 10.1 triệu ha rừng tự nhiên, còn lại gần 5 triệu ha rừng trồng.
Dù vậy, ngành lâm nghiệp phải chịu rất nhiều rủi ro, ví dụ cháy rừng, là những yếu tố nằm ngoài khả năng kiểm soát nên kể cả tạo ra được tín chỉ carbon thì tính bền vững, tính ổn định trong ngành này sẽ không cao so với các ngành khác. Ví dụ, ở ngành công nghiệp hay năng lượng, nếu thay đổi công nghệ từ phát thải cao xuống phát thải thấp thì gần như việc giảm phát thải được tạo ra vĩnh viễn.

Cũng theo ông Thọ, trong khung quy định chung toàn cầu khẳng định phải cải thiện tình hình hấp thụ carbon trên thế giới thì mới có thể lấy được tín chỉ carbon. Và nếu việc này được làm từ năm 1995 khi diện tích che phủ rừng còn thấp, cùng thực hiện quy trình ngay từ đầu thì giá trị tín chỉ carbon đó sẽ là rất lớn.

Nhưng vì không làm nên bây giờ chỉ có thể thu tín chỉ carbon bằng cách cải thiện khả năng hấp thụ so với mức hiện tại. Ví dụ, rừng hiện nay đang hấp thụ 1,000 tấn carbon, nếu cải thiện khả năng hấp thụ lên 1,050 tấn carbon thì chỉ được tính 50 tín chỉ carbon.
Chính vì vậy, cả vùng Bắc Trung bộ đang có khoảng 15 triệu tấn CO2, hiện nay đã chuyển nhượng 10.3 triệu đơn vị và còn hơn 5 triệu đơn vị, tuy không đáng kể nếu so với cả một diện tích rừng lớn nhưng lại là bước đầu tiên để biết rằng rừng có giá trị nếu như được quản lý, khai thác tốt thì có thể bán được giá cao.

“Nên phải hiểu rõ rừng của chúng ta thực sự có giá trị nhưng không phải tỉnh dậy là có ngàn tỷ, mà phải thực hiện quy trình để bảo vệ rừng bao gồm cải thiện đời sống của đồng bào dân tộc, cả đời sống người kiểm lâm bảo vệ, bảo tồn rừng; cả yêu cầu về kinh tế, về môi trường, văn hóa xã hội thì chất lượng tín chỉ carbon mới cao. Do đó phải đáp ứng 2 yêu cầu, thứ nhất là bền vững và thứ hai là cùng nhau hưởng lợi từ việc hấp thụ và lưu trữ carbon”, ông Thọ chia sẻ!.

Để có được tín chỉ carbon chất lượng với giá cao, không chỉ liên quan đến thị trường rừng mà còn liên quan đến quản lý và phát triển rừng bền vững. Hiện nay, tỷ trọng trồng rừng mới và khôi phục rừng chỉ chiếm 4% giá trị thị trường carbon toàn cầu, bảo vệ bảo tồn chiếm 8%, còn lại 88% là cải thiện và nâng cao chất lượng rừng, bao gồm cả việc giảm lượng thuốc trừ sâu sử dụng và tăng bảo vệ để chống các loài xâm hại, phá rừng.

Điều này đòi hỏi cần thực hiện một quá trình chặt chẽ, từ nghiên cứu khả thi dự án cho đến kiểm kê lượng phát thải carbon hiện tại, rồi cải thiện và nâng cao chất lượng hấp thụ carbon, tiếp tục giám sát và báo cáo, cuối cùng thực hiện việc xác nhận tín chỉ carbon theo đúng tiêu chuẩn toàn cầu.

Thêm vào đó, để nâng chất lượng tín chỉ carbon, không chỉ đơn thuần làm tăng khả năng hấp thụ, mà còn cần cải thiện điều kiện làm việc của những người thực hiện công tác bảo tồn, bảo vệ; liên quan đến các tiêu chí về kinh tế, xã hội và môi trường bền vững.

Và tất nhiên, tín chỉ carbon càng chất lượng thì giá càng cao. Trên thế giới, ví dụ ở Châu Âu có thể được bán tới từ 120 – 150 USD/tín chỉ trên thị trường tự nguyện, trên các thị trường khác có thể bán từ 70 - 100 USD.

“Nếu không làm từ đầu thì không có một tín chỉ carbon nào để bán. Điều này đã được minh chứng số tiền khoảng 51.5 triệu USD chúng ta vừa thu được từ những tín chỉ carbon đầu tiên nhờ sự hỗ trợ của WB, từ quá trình xây dựng nghiên cứu khả thi cho đến việc thẩm định và xác nhận”, ông Thọ làm rõ!.

Bổ sung thêm, vị Viện trưởng cho biết, đối với quy định rừng trồng, các tổ chức trên thế giới yêu cầu trồng ở nơi 50 năm trước chưa có rừng, thì rừng trồng mới trên diện tích đó mới được tính tín chỉ carbon.

“Tất cả dự án nếu như được thực hiện từ đầu và có quy trình cụ thể theo đúng tiêu chuẩn thì mới bán được tín chỉ carbon”, ông Thọ nhấn mạnh!.

Bảo Loan