
Nắng nóng, mưa, lũ cực đoan ngày càng gia tăng
Ban Liên chính phủ về BĐKH (IPCC) vừa công bố những kết quả đánh giá mới nhất về khoa học BĐKH. Đây là một trong 3 báo cáo quan trọng về đánh giá BĐKH lần 6 (AR6). Báo cáo có sự đóng góp của khoảng 234 nhà khoa học từ 66 quốc gia và đã dựa trên 14.000 trích dẫn nghiên cứu khoa học để đưa ra kết luận về những điểm đáng lo ngại của tình trạng BĐKH hiện nay. Đánh giá về các kịch bản và mức độ nguy hiểm của BĐKH theo báo cáo AR6, PGS.TS. Nguyễn Văn Thắng, Viện trưởng Viện Khoa học KTTV & BĐKH cho biết, Báo cáo AR6 của IPCC lần này dựa trên kết qủa của hơn 100 phiên bản mô hình với đầu vào là 5 kịch bản phát thải khí nhà kính (KNK) so với 4 kịch bản phát thải RCP của báo cáo AR5. Với 5 kịch bản phát thải có tên gọi mới “Kịch bản chia sẻ KT-XH” (SSP) được xây dựng dựa trên giả định về sự phát triển KT-XH trong tương lai. Đó là, các kịch bản sử dụng năng lượng, kiểm soát ô nhiễm không khí, việc sử dụng đất và phát thải KNK bằng cách sử dụng các mô hình đánh giá tích hợp.
Dòng sông đầy bùn sau những cơn mưa lớn ở Ấn Độ.
Với những cải thiện mới, kỳ vọng báo cáo đánh giá lần thứ 6 này của IPCC cho phép đưa ra những dự báo tin cậy hơn về sự nóng lên trong tương lai và những biến đổi toàn cầu liên quan đến BĐKH. Thông điệp quan trọng trong AR6 giải thích rằng, sự nóng lên trong giai đoạn 2021-2040 rất có khả năng vượt quá 1,50C trong điều kiện lượng phát thải rất cao và cũng có khả năng xảy ra như vậy trong điều kiện phát thải trung bình hoặc cao. Theo AR6, chúng ta đang nỗ lực để ít nhất là đến năm 2040, nhiệt độ chỉ tăng thêm 1,50C, một giới hạn nóng lên tối thiểu đã được đặt ra bởi Thỏa thuận Paris. Trên thực tế, nhiệt độ bề mặt toàn cầu sẽ tiếp tục tăng cho đến ít nhất là giữa thế kỷ, bất kể nỗ lực của các quốc gia để làm giảm thiểu điều này. Do vậy, những việc chúng ta cần làm lúc này cho tương lai của Trái đất là ngay lập tức thực hiện cắt giảm KNK, việc giảm phát thải vẫn có thể làm giảm tác động đến các thế hệ tương lai và hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu ở mức 1,50C. Báo cáo AR6 cũng khẳng định nhiệt độ bề mặt biển trung bình toàn cầu (SST) đã tăng lên trong Thế kỷ 20. AR6 cũng đưa ra dự báo nguy cơ mưa, lũ cực đoan ngày càng gia tăng. Báo cáo AR6 chỉ rõ BĐKH đã và đang có tác động đến chu trình nước và dẫn đến những hiện tượng cực đoan. Theo đó, các kết quả được đưa ra với độ tin cậy cao khi hành tinh nóng lên bao gồm: Các đợt mưa lớn dữ dội hơn và nguy cơ lũ lụt lớn hơn, hạn hán ngày càng nghiêm trọng do sự nóng lên trên đất liền làm tăng lượng bốc hơi. Sự thay đổi hoàn lưu nhiệt đới làm tăng cường mưa cực trị ở các vùng gió mùa. AR6 cũng chỉ rõ các tác động của con người là nguyên nhân chính cho sự nóng lên toàn cầu. Một thực tế không thể chối cãi là con người đang làm hành tinh nóng lên. Do vậy, nếu thế giới có hành động quyết liệt với việc giảm phát thải ngay lập tức, nhanh chóng và trên quy mô lớn, sự nóng lên có thể bị giới hạn ở mức 1,50C vào cuối thế kỷ 21. Báo cáo của IPCC chỉ ra yêu cầu cơ bản để xác định lại cách chúng ta sử dụng và sản xuất năng lượng, sản xuất và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ cũng như quản lý đất đai. Loại bỏ carbon cũng sẽ là cần thiết để bù đắp cho lượng khí thải khó giảm hơn, như khí mê-tan.
Hạn hán dẫn đến cháy rừng ở Austraylia.
Khu vực châu Á và Việt Nam chịu tác động nặng nề
Báo cáo AR6 do nhóm công tác số I IPCC chỉ ra rằng, khí thải nhà kính từ các hoạt động của con người khiến Trái đất nóng lên 1.10C kể từ giai đoạn 1850 - 1900. Mỗi thập kỉ trong bốn mươi năm vừa qua đều lần lượt nóng hơn các thập kỉ trước nó kể từ năm 1950. So với năm 1901, mực nước biển trung bình đã tăng 20 cm vào năm 2018. Mức tăng trung bình mực nước biển là khoảng 3.7 mm mỗi năm từ năm 2006 đến 2018. Cộng đồng khoa học hiện nay nhìn chung đã thấy rằng, những thay đổi khí hậu đang ngày càng lan rộng, nhanh chóng, mạnh mẽ và khó lường trong hàng nghìn năm tới.
Báo cáo AR6 do nhóm công tác số I IPCC chỉ ra rằng, khí thải nhà kính từ các hoạt động của con người khiến Trái đất nóng lên 1.10C kể từ giai đoạn 1850-1900. Mỗi thập kỉ trong bốn mươi năm vừa qua đều lần lượt nóng hơn các thập kỉ trước nó kể từ năm 1950. So với năm 1901, mực nước biển trung bình đã tăng 20 cm vào năm 2018. Mức tăng trung bình mực nước biển là khoảng 3.7 mm mỗi năm từ năm 2006 đến 2018. Cộng đồng khoa học hiện nay nhìn chung đã thấy rằng, những thay đổi khí hậu đang ngày càng lan rộng, nhanh chóng, mạnh mẽ và khó lường trong hàng nghìn năm tới.
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Thắng, Viện trưởng Viện Khoa học KTTV&BĐKH, về nắng nóng, ngày càng có nhiều bằng chứng và độ tin cậy cao về các hiện tượng nhiệt độ khắc nghiệt thường xuyên hơn ở thập kỷ gần đây so với những thập kỷ trước ở hầu hết châu Á. Theo đó, các hiện tượng nắng nóng khắc nghiệt rất có thể trở nên gay gắt hơn và/hoặc thường xuyên hơn, các đợt nóng bất thường xảy ra ngày càng nhiều. Ở châu Á, nhiệt độ đã tăng lên trong thế kỷ trước, các đợt nắng nóng khắc nghiệt đã trở nên thường xuyên hơn ở hầu hết các khu vực và rất có thể sẽ tăng ở các khu vực của châu Á (trong đó có Việt Nam). Các ngưỡng nhiệt độ nguy hiểm, như cao hơn 410C sẽ xảy ra thường xuyên hơn nhiều so với những năm gần đây. Bên cạnh đó, cường độ và tần suất các đợt lạnh, cũng như số ngày băng giá ở hầu hết các nước châu Á đã giảm kể từ đầu Thế kỷ 20, ngoại trừ các khu vực trung tâm Á-Âu nơi có sự lạnh đi trong giai đoạn 1995-2014 có liên quan đến mất băng biển ở Biển Barents - Kara. Các đợt lạnh sẽ có tần suất giảm dần trong tất cả các kịch bản trong tương lai trên khắp các khu vực châu Á. Tuy nhiên, vẫn có nguy cơ xảy ra các đợt rét đậm, rét hại kéo dài. Cùng với sự gia tăng của lượng mưa lớn ở hầu hết các khu vực châu Á, tần suất và cường độ lũ sông sẽ thay đổi. Do đó ở châu Á, lũ lụt sẽ tăng lên với các mức độ khác nhau trong điều kiện ấm lên của Trái đất.
Sạt lở đất là hiểm họa tự nhiên thường xuyên xảy ra nhất ở các vùng đồi núi. Do sự gia tăng của lượng mưa lớn và lớp băng vĩnh cửu tan ra làm gia tăng sạt lở đất dự kiến sẽ xảy ra ở một số khu vực của châu Á trong tương lai. Nguy hiểm hơn, số lượng các cơn bão mạnh sẽ gia tăng, chẳng hạn như số lượng bão đạt cấp 10 - 12 sẽ tăng. Số lượng xoáy thuận nhiệt đới trong tương lai có thể giảm nhưng cường độ gió tối đa sẽ mạnh hơn.
Sạt lở đất ở Quảng Nam (Việt Nam).
Đông Nam Á đã chứng kiến ngày càng nhiều đợt nắng nóng cực đoan, nơi này cũng đang chứng kiến sự tăng lên của những đợt mưa lớn dù chưa thể đưa ra kết luận chắc chắn do vẫn có những đợt hạn hán vì những nguyên nhân sinh thái và nông nghiệp. Nhìn vào dữ liệu và các mùa, các xu hướng về lượng mưa không rõ ràng và nhất quán theo vùng. Ở thời điểm này, nhiều thay đổi khí hậu đã không còn có thể đảo ngược, mực nước biển toàn cầu sẽ tiếp tục tăng trong suốt Thế kỷ 21. Tương tự như giai đoạn 1995-2014, khả năng cao là mực nước biển trung bình vào năm 2100 sẽ tăng khoảng 32-62 cm trong kịch bản khí thải nhà kính là thấp nhất. Trong tương lai xa hơn, mực nước biển sẽ tiếp tục dâng cao hàng thế kỉ cho đến hàng thiên nhiên kỉ do đáy đại dương nóng lên và băng tan. Và nó sẽ tiếp tục như vậy đến hàng nghìn năm sau. Những nhà khoa học khí hậu ước tính một cách chắc chắn rằng sự nóng lên toàn cầu trong tương lai ở Đông Nam Á sẽ ít hơn so với mức trung bình toàn cầu. Tuy nhiên, ảnh hưởng cộng hợp của BĐKH, của sạt lở đất và những hoạt động của con người sẽ dẫn đến lũ lụt nghiêm trọng hơn và kéo dài thời gian ngập úng ở Đồng bằng sông Mê Công.
Họ cũng khẳng định rằng mặc dù có tác động không đáng kể lên sự ấm lên của bề mặt Trái đất hằng năm, đô thị hóa khuếch đại ảnh hưởng của sự nóng lên toàn cầu tới các thành phố. Chẳng hạn, hiệu ứng đảo nhiệt đô thị (hiện tượng mà đô thị ấm hơn hẳn so với các khu vực ngoại ô xung quanh) đã tăng nhiệt độ của TP. Hồ Chí Minh lên thêm 0.410C so với các khu vực lân cận vốn đã chịu tác động của nóng lên toàn cầu. Đô thị hóa ảnh hưởng tới nhiệt độ trung bình ngày thấp nhất hằng năm hơn là nhiệt độ trung bình ngày cao nhất hằng năm. Những buổi đêm nóng kỉ lục sẽ xảy ra ngày một thường xuyên.
Các nhà khoa học của IPCC cảnh báo rằng sự nóng lên toàn cầu 20C sẽ bị vượt quá trong Thế kỷ 21. Hơn nữa, việc đạt được các mục tiêu của Thỏa thuận Paris 2015 sẽ “ngoài tầm với” trừ khi việc giảm phát thải CO2 và các KNK khác được thực hiện nhanh chóng và sâu rộng trong những thập kỷ tới. Theo các chuyên gia IPCC, vẫn còn thời gian để hạn chế BĐKH. Việc giảm phát thải CO2 và các KNK khác một cách mạnh mẽ và lâu dài có thể nhanh chóng cải thiện chất lượng không khí và trong vòng 20 - 30 năm, nhiệt độ toàn cầu có thể ổn định.
NGUYỄN HIỀN
Bộ Tài nguyên và Môi trường