Còn nhiều bất cập trong quản lý tổng hợp tài nguyên vùng bờ ở Khánh Hòa

Thứ hai, 4/10/2021, 13:18 (GMT+7)
logo Đến thời điểm này, việc quản lý tổng hợp tài nguyên vùng bờ tại Khánh Hòa vẫn mang tính đơn ngành và theo từng địa phương, chưa có cơ chế quản lý thống nhất mang tính điều phối giữa các cơ quan quản lý chuyên ngành của tỉnh và các huyện, thị xã, thành phố ven biển.

Còn nhiều bất cập trong quản lý tổng hợp tài nguyên vùng bờ ở Khánh Hòa

Ảnh minh họa

Thành tựu về kinh tế, xã hội

Trong những năm qua, cùng với việc đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, nền kinh tế tỉnh Khánh Hòa tăng trưởng cao với tốc độ tăng trưởng GRDP vào khoảng 6,5 - 7 % năm; GRDP bình quân đầu người đạt 67,57 triệu đồng. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt 46,200 tỷ đồng. Mức giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) đạt 1,36 %. Số lao động có việc làm tăng hàng năm đạt khoảng 11.600 người. Có 51 % số xã đạt 19 tiêu chí nông thôn mới. Các chỉ tiêu về tỷ lệ che phủ rừng đạt 48 %, tỷ lệ dân nông thôn được cung cấp nước hợp vệ sinh đạt 95 %. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng dịch vụ - du lịch, công nghiệp - xây dựng, nông - lâm - thủy sản, trong đó các ngành dịch vụ, kinh tế có khai thác, sử dụng tài nguyên biển ở Khánh Hòa rất phát triển đã tạo ra nhiều công ăn việc làm cho nhân dân ở các địa phương ven biển của tỉnh. Làn sóng di cư cơ học tăng từ các tỉnh, thành phố khác và các huyện miền núi chuyển về các địa phương ven biển cùng với việc phát triển các ngành kinh tế biển đã làm cho việc phân bố dân cư chủ yếu tập trung ở các huyện, thị xã và thành phố ven biển của tỉnh như Nha Trang, Ninh Hòa, Cam Ranh, Cam Lâm và Vạn Ninh đã làm gia tăng sức ép đối với công tác quản lý TN&MT ở các vùng ven biển của tỉnh. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước, tài nguyên biển để phát triển và đi kèm theo là các vấn đề quản lý chất thải rắn, ONMT không khí, môi trường nước, suy thoái tài nguyên sinh học ở các khu vực ven biển ngày càng tăng.

Đại dịch Covid 19 đã ảnh hưởng đến nền kinh tế cả nước, trong đó có Khánh Hòa. Trong năm 2020, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) ước giảm 9,8 % so với năm 2019, cụ thể: Khu vực nông, lâm, thủy sản giảm 4,7 %, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 4,3 %, khu vực dịch vụ giảm 18,2 %. Bên cạnh đó, thời tiết nắng nóng, hạn hán và lũ lụt cũng tác động mạnh đến đời sống và sản xuất của nhân dân. Kinh tế bị đình trệ, giảm sút đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến các ngành kinh tế khác nhau của tỉnh và tăng trưởng KT-XH của tỉnh và đời sống của nhân dân trong tỉnh cũng như công tác bảo vệ TNTN, môi trường biển và hải đảo (B&HĐ).

Còn nhiều bất cập

Về cơ chế, chính sách: Công tác kiểm soát ONMT biển có nguồn gốc từ đất liền còn gặp khó khăn do sự chồng chéo giữa các quy định của Luật BVMT năm 2020 Luật TN,MT B&HĐ. Một số quy hoạch, chương trình làm cơ sở để triển khai công tác quản lý trong lĩnh vực B&HĐ chưa được phê duyệt, như: Quy hoạch không gian biển; chương trình trọng điểm điều tra cơ bản TN,MT B&HĐ; chương trình quản lý tổng hợp (QLTH) tài nguyên vùng bờ.

Công tác giao khu vực biển cho các tổ chức, cá nhân khai thác sử dụng theo quy định của pháp luật về biển mới được thực hiện trong thời gian gần đây dẫn đến nhiều dự án có sử dụng đất ven biển không thực hiện sự công nhận khu vực biển theo quy định tại Nghị định số 51/2014/NĐ - CP. Nhiều dự án lấn biển và diện tích đất hình thành đã nằm ngoài đường mép nước biển trung bình nhiều năm. Luật Thủy sản số 18/2017/QH14 quy định việc giao khu vực biển để nuôi trồng thủy sản phải căn cứ quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch tỉnh và quy định của pháp luật về biển, bảo đảm QP - AN nhưng hiện nay việc giao khu vực biển sử dụng mục đích nuôi trồng thủy sản lại không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 51/2014/NĐ - CP gây khó khăn cho các dự án nuôi trồng thủy sản của người dân và doanh nghiệp cũng như trong công tác QLNN ở địa phương.

 Chưa có sự thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ chung giữa các văn bản QPPL: Luật TN,MT B&HĐ sử dụng thuật ngữ “nhận chìm ở biển”; nhưng theo khoản 1 Điều 3 Thông tư liên tịch số 198/2015/TTLT-BTC-BTNMT quy định phương pháp tính, phương thức thu, chế độ quản lý và sử dụng tiền sử dụng khu vực biển lại sử dụng thuật ngữ “Sử dụng khu vực biển để đổ thải bùn nạo vét”.

Thông tư liên tịch số 198/2015/ TTLT-BTC-BTNMT quy định “các hoạt động lấn biển” thuộc nhóm các hoạt động sử dụng biển phải nộp tiền sử dụng khu vực biển nhưng hiện chưa có các quy định pháp luật cụ thể đối với hoạt động lấn biển nhằm hạn chế tình trạng san lấp, lấn biển để làm các khu du lịch, khu đô thị, nhà máy, khu công nghiệp,… nhất là tại các vùng cần phải bảo tồn thiên nhiên, bảo tồn hệ sinh thái và sinh vật biển; chưa có sự phân định rõ ràng giữa hoạt động lấn biển và hoạt động nhận chìm ở biển.

 Việc chưa có quy định xử lý các hành vi vi phạm Luật Biển Việt Nam và Luật TN,MT B&HĐ, nhất là các hành vi không công nhận khu vực biển, gây ONMT biển, lấn biển, nhận chìm ở biển không có giấy phép,… đã dẫn đến tình trạng “nhờn” Luật.

Chương trình QLTH TN,MT B&HĐ và thực thi pháp luật quản lý về TN,MT B&HĐ liên quan đến nhiều bộ, ngành nhưng gặp không ít khó khăn, vướng mắc trong công tác phối kết hợp, trao đổi thông tin, dữ liệu của các cấp chính quyền, các cơ quan liên quan cũng như việc phân định chức năng, nhiệm vụ giữa các ngành, cơ quan liên quan đến biển còn nhiều bất cập.

Về kinh phí: Chưa có quy định về một nguồn ngân sách cụ thể cho các hoạt động thực thi pháp luật về B&HĐ. Vì vậy, rất nhiều quy định của Luật TN,MT B&HĐ chưa được thực hiện vì thiếu kinh phí do hạn chế về ngân sách trong khi đó ngân sách trung ương không đủ để hỗ trợ cho địa phương.

Nguồn nhân lực: Chưa có cán bộ, công chức chuyên trách công tác thông tin phổ biến, tuyên truyền các văn bản QPPL về lĩnh vực B&HĐ; phương pháp tuyên truyền lặp đi lặp lại nên hiệu quả chưa cao; sự tham gia của cộng đồng trong công tác BVMT biển, đảo còn mang tính hình thức, phong trào, chưa tạo được thói quen. Nguồn nhân lực chuyên trách công tác ứng phó sự cố tràn dầu tại các cơ quan quản lý và các cơ sở còn hạn chế về năng lực chuyên môn, kinh nghiệm kiểm soát và ứng phó sự cố tràn dầu. Cán bộ, công chức chuyên trách lĩnh vực B&HĐ chưa có nhiều kinh nghiệm trong thẩm định giao khu vực biển cũng như sử dụng hệ thống kỹ thuật hỗ trợ công tác QLNN về giao khu vực biển.

Một số đề xuất

Tiếp tục nghiên cứu, đề xuất bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống văn bản QPPL, giải quyết những chồng chéo, bất cập giữa các Luật Đất đai, Luật BVMT, Luật Biển Việt Nam, Luật TN,MT B&HĐ, hạn chế những thiếu sót trong quá trình triển khai thực hiện.

Sớm hoàn thành công tác xây dựng và ban hành quy hoạch không gian biển quốc gia; Chương trình trọng điểm điều tra cơ bản TN,MT B&HĐ; Chương trình QLTH tài nguyên vùng bờ,… làm cơ sở cho các địa phương ven biển thực hiện tốt công tác quản lý, khai thác, sử dụng bền vững TN&MT biển, công tác giao khu vực biển và quản lý hoạt động nhận chìm ở biển.

Ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 51/2014/NĐ - CP của Chính phủ quy định việc giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển cũng như Nghị định về lấn biển để làm căn cứ quản lý.

 Cần phải có sự thống nhất trong việc sử dụng các thuật ngữ giữa các Luật TN,MT B&HĐ, Luật Biển Việt Nam và thông tư liên tịch hướng dẫn.

Ban hành Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực QLTH tài nguyên, BVMT B&HĐ theo hướng cụ thể hóa hành vi và đưa ra chế tài xử lý nghiêm, đủ sức răn đe đối với các hành vi vi phạm; ban hành quy định về hoạt động lấn biển và các quy định về quản lý, kiểm soát hoạt động nhận chìm ở biển.

 Có cơ chế hoặc cân đối ngân sách trung ương, hỗ trợ kinh phí cho các địa phương thực hiện các dự án, nhiệm vụ điều tra TN, MT biển. Cần thiết xây dựng cơ chế huy động các nguồn lực để phục vụ công tác điều tra, khảo sát, bảo vệ TN,MT B&HĐ.

 Xây dựng nguồn kinh phí tương tự nguồn vốn kinh phí sự nghiệp môi trường, sự nghiệp khoa học,… để có nguồn vốn và bố trí thực hiện các nhiệm vụ trong lĩnh vực B&HĐ;

 Hướng dẫn và đầu tư các trang thiết bị phục vụ công tác điều tra, khảo sát tài nguyên biển, kiểm soát ô nhiễm biển và phòng chống sự cố ô nhiễm trên biển; đầu tư hệ thống công cụ, kỹ thuật phục vụ công tác quản lý và theo dõi công tác giao khu vực biển; đầu tư các trang thiết bị chuyên dụng ứng phó sự cố tràn dầu…;

Xây dựng, ban hành khung cơ sở dữ liệu TN,MT B&HĐ để đảm bảo tích hợp, hệ thống, thống nhất, đồng bộ trong địa phương và trong phạm vi cả nước.

 

ĐỨC HÙNG

Sở Tài nguyên và Môi trường Khánh Hòa