Đánh giá ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sử dụng đất sản xuất nông nghiệp vùng Bắc Trung bộ giai đoạn 2011-2015

Thứ sáu, 12/11/2021, 08:54 (GMT+7)
logo Biến đổi khí hậu (BĐKH) và các hiện tượng thiên tai cực đoan, dị thường không còn là nguy cơ mà đã hiện hữu ở Việt Nam, tác động rất lớn tới nông nghiệp nước ta, cụ thể là đất sản xuất nông nghiệp. Bài báo này tổng kết, đánh giá diễn biến BĐKH và những ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH đến đất sản xuất nông nghiệp khu vực Bắc Trung bộ giai đoạn 2011-2015. Kết quả nghiên cứu cho thấy do BĐKH, đất sản xuất khu vực Bắc Trung bộ đang mất dần. Giai đoạn 2011-2015, đất bị thoái hóa tăng 15,2%; Đất bị khô hạn tăng 11,6%; Đất bị ngập úng tăng 1,8% so với các giai đoạn trước. Đặc biệt, tình hình nhiễm mặn đất ngày càng phức tạp, nước mặn đã nhiễm sâu vào cửa sông có nơi 30 km, nhiễm mặn vào nội đồng có nơi sâu 100 m.

Đánh giá ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sử dụng đất sản xuất nông nghiệp vùng Bắc Trung bộ giai đoạn 2011-2015

Ảnh minh họa

Dự báo nguy cơ mất diện tích đất sản xuất khu vực do BĐKH

Vùng Bắc Trung bộ gồm 6 tỉnh: Thanh Hóa; Nghệ An; Hà Tĩnh; Quảng Bình; Quảng Trị; Thừa Thiên Huế với diện tích tự nhiên là 5.148.181 ha (số liệu kiểm kê đất đai năm 2005) chiếm 15,6 % diện tích tự nhiên của cả nước.

Theo Kịch bản BĐKH và nước biển dâng được cập nhật năm 2016 do Bộ TNMT công bố thì khu vực Bắc Trung bộ nhiệt độ trung bình/năm tăng từ 1,90C, mưa có xu thế giảm trong mùa khô tới 13% và tăng trong mùa mưa từ 12-10% làm cho nguồn nước bị khủng hoảng đây là nguyên nhân gây thêm tình trạng hạn hán, lũ lụt nghiêm trọng ở những vùng xung quanh các lưu vực sông. Cùng với lượng mưa biến đổi thất thường sẽ làm nước biển dâng dự báo tăng từ 53 - 72 cm dẫn đến 1,47% diện tích của vùng có nguy cơ ngập và mất đất sản xuất và có tác động mạnh đến các hoạt động tưới tiêu, chống lũ của các lưu vực sông.

Tuy nhiên tại thời điểm này, hầu hết các quy hoạch vùng, quy hoạch lưu vực sông đã lập tại khu vực miền Trung đều chưa xét đến yếu tố BĐKH và nước biển dâng hoặc có xét đến nhưng chưa đầy đủ, hoàn thiện. Nếu không có biện pháp hữu hiệu để ứng phó, khu vực Bắc Trung bộ sẽ mất diện tích đất sản xuất ngày càng lớn.

Biểu hiện của BĐKH khu vực giai đoạn 1981-2017

Xu thế biến đổi nhiệt độ: Phân tích dữ liệu 16 trạm quan trắc khí tượng Bắc Trung bộ cho thấy: Trong khoảng thời gian từ 1981-2017, nhiệt độ trung bình năm ở khu vực Bắc Trung bộ có xu thế tăng dần, trong đó các thập niên sau tăng nhanh hơn các thập niên trước. Trung bình mỗi thập niên nhiệt độ trung bình năm tăng từ 0,1-0,30C.

Nhiệt độ không khí trung bình các tháng chính đông giai đoạn từ 1981-2017 nhìn chung có xu hướng tăng trên toàn khu vực, song không khí lạnh có nhiều biểu hiện bất thường, mùa lạnh đến sớm hơn (cuối tháng tháng 8 đã xuất hiện), số đợt nhiều hơn, cường độ không mạnh như nhiều năm trước đây song lại có những năm xuất hiện rét đậm, rét hại kéo dài mang tính lịch sử như các năm 2009, 2010, 2011, 2016. Nhiệt độ không khí tối thấp trung bình tháng từ 12 - 14oC, nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối đạt 5 - 7oC.

Nhiệt độ trung bình các tháng chính hè ở Bắc Trung bộ có xu thế tăng. Nhiệt độ trung bình tháng 6,7 thời gian gần đây hầu hết đều xấp xỉ từ 28- 30oC, có nơi trên 30oC. Tháng 7/2006 nhiệt độ trung bình đạt 31,6oC; tháng 5,6,7 năm 2010 số ngày có nhiệt độ từ 33- 35oC đều vượt quá 15 ngày, tất cả các địa phương trên toàn khu vực đều có nhiệt độ không khí cao nhất tuyệt đối từ 41- 42oC. Số ngày nóng và tháng có nắng nóng tăng lên đáng kể.

Xu thế biến đổi lượng mưa: Phân tích dữ liệu quan trắc của gần 60 trạm khí tượng của khu vực cho thấy lượng mưa trung bình năm theo thập niên ở khu vực có xu hướng giảm dần. Xét trong ba thập niên từ 1981-2017, điển hình là tại Quảng Trị lượng mưa trung bình năm các thập niên lần lượt là 2691.0mm; 2617,9mm và 2301.1mm.

Trong những tháng cao điểm của mùa mưa bão, lượng mưa thiếu hụt so với trung bình nhiều năm các thập niên trước rất nhiều, điển hình là các năm 1987, 1999, 2006, 2008, 2009 và 2014 lượng mưa trung bình hàng năm có khi thiếu hụt tới 100 mn, trung bình lượng thiếu hụt lên tới 30%. Mùa mưa trong thập niên gần đây thường đến muộn và kết thúc sớm hơn bình thường từ 15 ngày đến một tháng. Theo dữ liệu của 60 trạm khí tượng chỉ ra rằng tỷ suất số tháng có lượng mưa lớn của khu vực (> 100 mn) giai đoạn 1981-2017 đang có xu thế dịch chuyển vào các tháng 8,9,10 (tỷ suất mưa trên 90%) thay vì trải dài từ tháng 5 đến tháng 11 như quy luật. Điều này cho thấy mùa mưa khu vực đang có xu hướng đến muộn và kết thúc sớm.

Biến đổi các hiện tượng khí hậu cực đoan

Gió tây khô nóng (GTKN): Ở Bắc Trung bộ số ngày có GTKN tăng lên đáng kể trong các thập niên gần đây, phù hợp với xu thế tăng nhiệt độ GTKN có xu thế xuất hiện sớm hơn và kết thúc cũng muộn hơn, số đợt nhiều hơn xảy ra cục bộ và diễn biến phức tạp hơn, đặc biệt là số ngày GTKN gay gắt (nhiệt độ từ 37oC trở lên) cũng nhiều hơn. Năm 2007, GTKN xuất hiện ngay từ tháng 2 ở hầu hết các tỉnh trên toàn khu vực, nhiều nơi có nhiệt độ cao nhất trên 35oC. Năm 2008, có đợt GTKN gay gắt kéo dài trên 30 ngày với nhiệt độ tối cao tuyệt đối từ 39-41oC; năm 2009 có từ 40 - 50 ngày GTKN; năm 2010 từ 55 đến 70 ngày trên toàn khu vực. Mùa hè năm 2010 nhiều đợt nắng nóng gay gắt, nhiệt độ tối cao tuyệt đối dao động từ 40-42oC, cuối tháng 11 tại Nghệ An, Hà Tĩnh nhiệt độ cao nhất đo được từ 35- 36oC. Tháng 4, 5 năm 2014 và 2015 trên toàn khu vực có từ 15-28 GTKN gay gắt, có nơi nhiệt độ cao nhất trên 42oC. Đây là nguyên nhân gây nên hạn hán nghiêm trọng ở các tỉnh từ Nghệ An trở vào.

Rét đậm, rét hại: Số đợt rét đậm, rét hại giảm đi rõ rệt. Số ngày rét đậm, rét hại càng về những thập niên gần đây càng giảm đi, có năm ở Thanh Hóa chỉ có 2- 4 ngày rét đậm, rét hại. So sánh số ngày rét đậm rét hại trung bình trong thập niên 1991-2000 với 4 thập niên từ 1961-2000, ta thấy số ngày rét đậm, rét hại giảm đi từ 40 - 50 % ở hầu hết các khu vực, nhiệt độ thấp nhất trong các ngày có rét đậm, rét hại phổ biến từ 5 - 7oC, cao hơn số liệu lịch sử 2 - 3oC. Tuy nhiên, vẫn xảy ra một số đợt rét đậm, rét hại kéo dài với cường độ mạnh, điển hình là đợt rét đậm, rét hại kéo dài 38 ngày từ 14 tháng 1 đến 20 tháng 2/2008 có tính dị thường và cực đoan, đạt mức kỷ lục trong chuỗi số liệu quan trắc nhiều năm, gây thiệt hại lớn cho sản xuất nông nghiệp ở Bắc Trung Bộ.

Đánh giá ảnh hưởng của BĐKH đến đất sản xuất nông nghiệp khu vực giai đoạn 2011-2015

Gia tăng đất khô hạn do hạn hán, nắng nóng: Tổng hợp số liệu thống kê đất đai của 6 tỉnh thành Bắc Trung bộ cho thấy giai đoạn 2011-2015 tổng diện tích đất khô hạn sản xuất là 2.377.404 ha, tăng 11,6 % so với các giai đoạn trước đó. Theo đó, vùng khô hạn nặng phân bố dọc ven biển; vùng khô hạn trung bình phân bố hầu hết khu vực đồng bằng. Loại đất có diện tích cũng như mức độ khô hạn lớn nhất là đất rừng sản xuất, đất lúa và đất rừng phòng hộ. Đặc biệt là đất lúa, trong số 402.198,96 ha đất lúa thuộc vùng khô hạn thì đã có 127.770,60 ha thuộc vùng hạn nặng. Năm 2010, vụ sản xuất hè thu gặp điều kiện thời tiết nắng hạn và sự bùng phát của dịch, bệnh lùn sọc đen, sâu cuốn lá nhỏ, đã làm giảm đáng kể năng suất lúa và cây trồng cạn. Năm 2014 tình trạng mùa khô kéo dài đã ảnh hưởng tới gần 50 nghìn ha lúa và hơn 30 nghìn ha đậu, lạc; nhiều diện tích gieo cấy không có nước nên cây trồng sinh trưởng, phát triển kém có nơi mất trắng.

Gia tăng đất ngập mặn do hạn hán, thiếu hụt lượng mưa: Khô hạn trước đây chỉ kéo dài 2-3 tháng, nay tới 4-5 tháng, thậm chí từ năm 2004 đến nay, hạn hán ở Bắc Trung Bộ diễn ra 6 tháng (từ tháng 3-8), làm cạn kiệt nhanh nguồn nước, nước mặn xâm nhập sâu vào nội đồng và vùng dân cư. Nước biển đã lấn sâu vào nội địa có nơi tới hàng 100m như ở Sầm Sơn - Thanh Hóa, bờ biển Kỳ Anh-Hà Tĩnh, bãi biển Nhật Lệ, TP Đồng Hới-Quảng Bình. Trên một số sông, lạch, mặn đã tiến sâu vào đất liền có nơi tới gần 30km. Tại cống lấy nước vùng cửa sông độ mặn đo được ở mức 15 – 28‰ (tháng 2/2010), trong khi độ mặn cho phép để lấy nước tưới phục vụ sản xuất là dưới 1,2‰. Đất mặn ở Bắc Trung bộ chiếm khoảng trên 0,2 % so với tổng diện tích tự nhiên, phân bố theo các cửa sông, bãi bồi và đất cát, đất phù sa vùng ven biển. Đặc biệt, chiều dài xâm nhập mặn ở các cửa sông tính đến năm 2017 hầu như tăng lên từ 2- 5 km so với những năm 1990, riêng ở sông Mã, Sông La, sông Nhật Lệ và sông Thạch Hãn chiều dài xâm nhập mặn tăng lên đến 15 km.

Gia tăng đất thoái hóa: Kết quả thống kê cho thấy 6 tỉnh khu vực có tổng diện tích đất sản xuất bị thoái hóa là 2.639.132,2 ha, tăng 15,2% so với cùng giai đoạn trước. Đất bị thoái hóa chủ yếu bởi các nguyên nhân đất bị rửa trôi do lũ lụt, do hạn hán dẫn đến sa mạc hóa. Ở vùng đồng bằng đất bị thoái hóa nhiều nhất là trên đất cồn cát trắng vàng vùng ven biển ở Hà Tĩnh và Quảng Bình, Quảng Trị. Trong số đất bị thoái hóa, diễn ra nhiều nhất ở nhóm đất sản xuất lúa với 400.617,2 ha và đất rừng phòng hộ, sản xuất có diện tích 1.603.825 ha, tăng bình quân 16,5% so với giai đoạn trước.

Giảm sản xuất do rét đậm, rét hại: Không khí lạnh xuất hiện các đợt rét đậm, rét hại kéo dài với cường độ mạnh dị thường, đạt mức kỷ lục trong chuỗi số liệu quan trắc nhiều năm, gây nhiều thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp ở Bắc Trung bộ. Mùa đông năm 2007, hiện tượng giá rét, sương muối nhiều hơn bình thường và ít mưa gây ra triệu chứng đất bị khô cằn, nhiễm mặn, nhiều diện tích ở Quảng Bình, Quảng Trị bị khô không sản xuất được, gần 20.000 ha lúa bị chết rét phải gieo cấy lại không hết diện tích. Năm 2011 rét đậm, rét hại kéo dài trong vụ Đông Xuân, trong đó từ 30-36 ngày nền nhiệt độ dưới 15oC, làm cho gần 60.000 ha lúa bị giảm năng suất, có nơi mất trắng.

Giảm đất sản xuất do lũ lụt: Các trận lũ lớn năm 2005, 2007, 2010, 2013, 2016 và 2017 đã làm ngập úng trên diện rộng, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đến đất sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy, hải sản. Lũ xảy ra trùng với thời điểm sản xuất vụ Đông làm cho gần 100.000 ha cây trồng vụ Đông hư hỏng và mất trắng. Đặc biệt trong vụ hè thu, mưa lớn, lũ, bão làm ngập úng, rửa trôi sạt lở và vúi lấp nhiều diện tích đất trồng lúa, đất trồng cây hàng năm. Theo số liệu thống kê của 6 tỉnh thành khu vực, tổng diện tích đất sản xuất bị ngập úng là 146.433 ha, tăng 1,8% so với cùng giai đoạn trước.

Kết luận

Dựa trên số liệu quan trắc của 60 trạm khí tượng và thủy văn, bài viết đã đánh giá một cách sơ bộ diễn biến BĐKH khu vực Bắc Trung bộ giai đoạn 1981-2017 với các yếu tố nhiệt độ, lượng mưa và một số hiện tượng thời tiết cực đoan. Nhìn chung nhiệt độ trung bình có xu hướng tăng lên, lượng mưa giảm về thời gian và cường độ, các yếu tố thời tiết cực đoan diễn biến phức tạp, xuất hiện dị thường và có nhiều kỷ lục được ghi lại.

Chính do BĐKH, đất sản xuất khu vực Bắc Trung bộ đang mất dần. Đánh giá cho thấy giai đoạn 2011-2015, đất bị thoái hóa tăng 15,2%; Đất bị khô hạn tăng 11,6%; Đất bị ngập úng tăng 1,8% so với các giai đoạn trước. Đặc biệt, tình hình nhiễm mặn đất ngày càng phức tạp, nước mặn đã nhiễm sâu vào cửa sông có nơi 30 km, nhiễm mặn vào nội đồng có nơi sâu 100 m.

Tài liệu tham khảo

1. UBND tỉnh Nghệ An. Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An, 2015.

2. UBND tỉnh Hà Tĩnh. Báo cáo Điều tra, đánh giá sự thay đổi diện tích RPH ven biển, RNM ảnh hưởng đến sạt lở và biến đổi khí hậu các huyện ven biển tỉnh Hà Tĩnh, 2009.

3.Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Bình đến năm 2020.

4. Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và môi trường. Các kịch bản nước biển dâng và khả năng giảm thiểu rủi ro ở Việt Nam. Hà nội, tháng 11/2016.

5. Các số liệu quan trắc của 60 trạm khí tượng và thủy văn khu vực Bắc Trung bộ.

6. Số liệu thống kê đất đai 6 tỉnh Bắc Trung bộ giai đoạn 2010-2015.

TRẦN THỊ THANH HUYỀN, MAI VĂN THÔNG

NGUYỄN THỊ HẰNG, NGUYỄN VĂN VINH

Phân hiệu Trường Đại học TN&MT Hà Nội tại tỉnh Thanh Hóa