
Đặt vấn đề
Họ đậu là họ cây có nhiều giá trị cả về dinh dưỡng, kinh tế. Ngoài ra, trồng cây họ Đậu còn có giá trị cải tạo đất bị bạc màu, BVMT nhờ các vi khuẩn cố định nitơ Rhizobium sống cộng sinh với các nốt sần ở rễ có khả năng cố định nitơ trong không khí thành dạng đạm dễ tiêu bổ sung vào trong đất. Nhờ có những đặc điểm này mà trong rất nhiều năm trở lại đây, các loài cây họ Đậu luôn được người nông dân Tây Bắc chú trọng phát triển.
Với mục tiêu bảo tồn nguồn gen quý và đề xuất mô hình sản xuất để nâng cao hiệu quả kinh tế từ canh tác cây họ Đậu tại Tây Bắc. Chúng tôi tiến hành xây dựng mô hình canh tác 4 giống cây họ đậu bản địa ưu tú với 3 giống ngô có thời gian sinh trưởng khác nhau để đánh giá hiệu quả giữa các mô hình.
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Vật liệu
04 mẫu giống cây họ Đậu được thu thập tại Sơn La và Điện Biên: Đậu nho nhe mộc châu (NN6), Đậu đen Hát Lót (ĐĐ7), Đậu xanh Mường La (ĐX6) và Lạc Mường Nhé (L12) và 3 giống ngô AG 59, LVN 99, LVN 10.
Phương pháp: Tiến hành 16 công thức thí nghiệm tuần tự, không lặp lại với 4 giống cây họ Đậu, trong đó với mỗi giống cây họ đậu thực hiện 04 công thức: Cây họ Đậu trồng thuần; trồng xen với giống ngô ngắn ngày: AG 59; trồng xen với giống ngô trung ngày: LVN 99; trồng xen với giống ngô dài ngày: LVN 10
Diện tích 1 ô thử nghiệm là 500 m2. Các chỉ tiêu đo đếm đối với cây Đậu xanh, Đậu đen và Đậu nho nhe dựa theo QCVN 01-62 : 2011/BNNPTNT; Lạc dựa theo QCVN 01-57 : 2011/BNNPTNT; Ngô dựa theo: QCVN 01-56 : 2011/BNNPTNT. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu còn hạch toán hiệu quả kinh tế theo công thức: HQKT = Tổng thu – Tổng Chi (VNĐ). Số liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm Mini Tab 16.0.2 theo ở mức ý nghĩa 0.05.
Kết quả và thảo luận
Kết quả đánh giá mô hình canh tác Lạc
Mẫu giống đậu xanh ĐX6 được chúng tôi tiến hành canh tác trong các điều kiện trồng thuần và trồng xen với 3 giống ngô khác nhau tại thành phố Sơn La, kết quả ghi nhận được trình bày tại bảng 1.
Bảng 1: Kết quả mô hình canh tác Đậu xanh bản địa tại TP. Sơn La
Ghi chú: CT1: Đậu xanh trồng thuần; CT2: Đậu xanh xen ngô ngắn ngày;
CT3: Đậu xanh xen ngô trung ngày; CT4: Đậu xanh xen ngô dài ngày
Kết quả theo dõi cho thấy, thời gian sinh trưởng của giống Đậu xanh ở các công thức có sự khác biệt, công thức trồng thuần (CT1) có thời gian sinh trưởng (63 ngày) ngắn hơn các công thức trồng xen (CT2, CT3, CT4), trong 3 mô hình trồng xen thì mô hình trồng đậu xen ngô dài ngày có thời gian sinh trưởng ngắn nhất.
Chiều cao cây ở 4 công thức thí nghiệm dao động từ 66,9 – 88,2 cm, trong đó mô hình trồng xen đậu với ngô ngắn ngày (CT2) cây Đậu xanh có chiều cao lớn nhất đạt 88,2 cm, hai công thức trồng xen còn lại đều có chiều cao cây lớn hơn so với công thức trồng thuần (66,9 cm). Điều này có thể được giải thích do trồng xen cây Đậu xanh có đặc tính leo bán, trong điều kiện trồng xen cây Đậu xanh leo bán lên thân cây ngô nên chiều cao lớn hơn so với trồng thuần.
Hai chỉ tiêu về số quả chắc/cây và số hạt/quả của các công thức thí nghiệm cũng có sự khác biệt rõ rệt. công thức trồng thuần CT1 có số quả chắc/cây (10,6 quả) và số hạt/quả (9,87 hạt/quả) cao hơn so với 3 công thức trồng xen. Trong các công thức trồng xen, công thức CT2 có số hạt/quả và số quả chắc/cây cao hơn hai công thức còn lại.
Năng suất thực thu của các công thức có sự biến động khá lớn, công thức CT1 cho năng suất cao nhất đạt 9,7 tạ/ha, các công thức trồng xen có năng suất thấp hơn từ 1,1 – 2 tạ/ha, trong đó công thức CT4 có năng suất thấp nhất chỉ đạt 7,7 tạ/ha, CT3 đạt 8,2 tạ/ha, CT2 đạt 8,6 tạ/ha.
Giải thích cho việc năng suất giữa các mô hình có sự biến động khá lớn như vậy là do, các mô hình trồng xen cây đậu xanh bị thiếu ánh sáng, do đó thân phát triển kéo dài theo hiệu ứng hướng sáng, đồng thời hoạt động quang hợp kém hơn nên ảnh hưởng đến việc tích luỹ chất dinh dưỡng cho quả và hạt. Bên cạnh đó, yếu tố sâu bệnh hại cũng làm ảnh hưởng lớn đến năng suất cây trồng.
Có thể thấy, các công thức trồng xen có tỉ lệ nhiễm sâu bệnh hại cao hơn so với cây trồng thuần. Tỉ lệ sâu hại trên đậu xanh trồng thuần là 15,7% (CT1), tỉ lệ này là 27,4% ở CT2, 30,6% ở công thức 3 và ở công thức 4 tỉ lệ này lên đến 32,8 % tức là gần gấp đôi so với công thức trồng thuần. Tỉ lệ bệnh hại ở các công thức cũng có diễn biến tương tự, ở CT1 tỉ lệ bệnh hại là 10,2 %, CT2 là 11,6 %, CT3 là 15,8 % và CT4 là 21,5%. Sở dĩ mô hình trồng xen Đậu xanh với ngô dài ngày lại có tỉ lệ sâu bệnh hại cao nhất do thời gian sinh trưởng cây ngô dài, thân cao dẫn đến độ ẩm, nhiệt độ cao, độ thoáng khí ít là môi trưởng thích hợp để sâu bệnh phát triển.
Kết quả đánh giá mô hình canh tác Đậu đen
Giống đậu đen Hát Lót (ĐĐ7) được chúng tôi tiến hành canh tác trong các điều kiện trồng thuần và trồng xen với các giống ngô có thời gian sinh trưởng khác nhau tại thành phố Sơn La, kết quả ghi nhận được trình bày tại bảng 2
Bảng 2. Kết quả mô hình canh tác Đậu đen bản địa tại TP. Sơn La
Ghi chú: CT1: Đậu đen trồng thuần; CT2: Đậu đen xen ngô ngắn ngày;
CT3: Đậu đen xen ngô trung ngày; CT4: Đậu đen xen ngô dài ngày
Năng suất thực thu của các mô hình có sự sai khác rõ rệt ở mức ý nghĩa P<0,05, Công thức trồng thuần CT1 cho năng suất cao nhất đạt 12,79 tạ/ha, tiếp đến là công thức trồng xen với ngô ngắn ngày CT2 đạt 11,23 tạ/ha, công thức trồng xen ngô trung ngày CT3 đạt 9,55 tạ/ha, và thấp nhất là công thức trồng xen với ngô dài ngày CT4 chỉ đạt 7,48 tạ/ha.
Nguyên nhân của sự khác biệt về năng suất thực thu giữa các công thức phần lớn là do các công thức trồng xen có tỉ lệ sâu bệnh hại lớn, gây hạo hụt năng suất khá nhiều. Kết quả theo dõi cho thấy, tỉ lệ sâu bệnh hại ở công thức trồng thuần CT1 là thấp nhất (sâu hại 11,13%; bệnh hại 16,87%), các công thức trồng xen có tỉ lệ sâu bệnh hại khá cao gấp từ 2 – 3 lần so với trồng thuần, trong đó công thức trồng xen ngô dài ngày CT4 là cao nhất (sâu hại 32,1%; bệnh hại 51,04%), tiếp đến là trồng xen ngô trung ngày CT3 ((sâu hại 27,05%; bệnh hại 42,23%), thấp nhất trong nhóm trồng xen là công thức trồng xen ngô ngắn ngày CT2 (sâu hại 22,24%; bệnh hại 29,19%), sở dĩ các mô hình trồng xen thường có tỉ lệ sâu bệnh hại cao hơn là do khi trồng xen cây đậu đen có đặc tính leo bò lên thân ngô, tạo môi trường khá dậm dạp, nóng ẩm là điều kiện thuận lợi để sâu bệnh hại phát triển mạnh, gây giảm năng suất cây đậu đen
Kết quả đánh giá mô hình canh tác Đậu nho nhe
Nghiên cứu tiến hành 4 công thức thí nghiệm khác nhau. Kết quả nghiên cứu được thể hiện trong bảng 3.
Bảng 3. Kết quả mô hình canh tác Đậu nho nhe bản địa tại TP. Sơn La
Ghi chú: CT1: Đậu nho nhe trồng thuần; CT2: Đậu nho nhe xen ngô ngắn ngày
CT3: Đậu nho nhe xen ngô trung ngày; CT4: Đậu nho nhe xen ngô dài ngày
Kết quả theo dõi cho thấy, các chỉ tiêu về thời gian sinh trưởng và số nhánh cấp 1 giữa các công thức thí nghiệm không có sự khác biệt. Thời gian sinh trưởng của đậu nho nhe khá dài lên đến 150 ngày, số nhánh cấp 1 ở các công thức thí nghiệm dao động từ 5,2 – 5,4 nhánh/cây.
Kết quả đánh giá mô hình canh tác Lạc
Chúng tôi tiến hành xây dựng các mô hình canh tác giống Lạc Mường Nhé (L12) bao gồm 04 công thức thí nghiệm: Lạc thuần và Lạc trồng xen với các giống ngô có thời gian sinh trưởng khác nhau, kết quả nghiên cứu được thể hiện trong bảng 4.
Bảng 4. Kết quả mô hình canh tác lạc bản địa tại TP. Sơn La
Ghi chú: CT1: Lạc trồng thuần; CT2: Lạc xen ngô ngắn ngày;
CT3: Lạc xen ngô trung ngày; CT4: Lạc xen ngô dài ngày
Kết quả theo dõi cho thấy thời gian sinh trưởng của Lạc ở các công thức thí nghiệm có sự khác biệt, ở công thức trồng thuần CT1 thời gian sinh trưởng ngắn nhất là 89 ngày, tiếp đến là công thức trồng xen ngô ngắn ngày CT2 là 97 ngày, hai công thức CT3 và CT4 có thời gian sinh trưởng bằng nhau là 105 ngày.
Tổng hợp kết quả của các mô hình thí nghiệm cho 4 loại giống cây họ Đậu trên chúng tôi nhận thấy: Cây Đậu xanh, Đậu đen và Lạc sinh trưởng, phát triển tốt hơn trong điều kiện trồng thuần, cây Đậu nho nhe sinh trưởng tốt hơn trong điều kiện trồng xen. Tỉ lệ sâu hại ở các mô hình trồng thuần trung bình khoảng 12 %, ở mô hình trồng xen là 18,9 %. Tỉ lệ bệnh hại trung bình là 9,58 % ở mô hình trồng thuần và 17,22 % ở mô hình trồng xen.
Năng suất thực thu của các mô hình trồng thuần các giống đậu dao động từ 9,7 – 23,3 tạ/ha, trong đó đậu xanh, đậu đen, lạc có năng suất trồng thuần cao hơn so với trồng xen, đậu nho nhe năng suất trồng thuần thấp hơn so với trồng xen, lạc trồng thuần có năng suất cao nhất đạt 23,3 tạ/ha. Các mô hình trồng xen có năng suất trung bình dao động từ 7,7 – 23,4 tạ/ha, trong đó trồng xen ngô và đậu nho nhe cho năng suất cao nhất. Trong các mô hình trồng xen cây họ Đậu với ngô, thì trồng xen ngô ngắn ngày cho năng suất trung bình cao nhất 15,01 tạ/ha (tính chung cho 4 loại giống cây Đậu), mô hình trồng xen ngô dài ngày cho năng suất trung bình thấp nhất 12,46 tạ/ha.
Kết luận
Trong điều kiện thử nghiệm chúng tôi thu được một số kết luận sơ bộ sau:
Cây Lạc, Đậu xanh, Đậu đen sinh trưởng phát triển tốt hơn trong điều kiện trồng thuần, ngược lại đậu nho nhe phát triển tốt hơn trong điều kiện trồng xen
Mức độ nhiễm sâu hại khi trồng xen cao hơn so với trồng thuần từ 4,2 – 8,4%. Mức độ nhiễm bệnh hại cao hơn từ: 4,1- 12,1 % so với trồng thuần.
Lạc trồng thuần cho năng suất cao nhất đặt 23,3 tạ/ha, đậu nho nhe trồng xen cho năng xuất cao nhất 23,4 tạ/ha.
Lạc, đậu xanh, đậu đen trồng xen ngô dài ngày cho năng suất thấp nhất. Trong ba giống ngô trồng xen, giống ngô ngắn ngày trồng xen cho hiệu quả cao nhất.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ NN&PTNT (2011) Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khảo nghiệm giá trị canh tác và giá trị sử dụng của giống lạc.
2. Bộ NN&PTNT (2011) Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khảo nghiệm giá trị canh tác và giá trị sử dụng của giống đậu xanh
3. Nguyễn Hoàng Phương (2010) Báo cáo kết quả thực hiện dự án AGB 2008/002 nội dung quản lý cây trồng tổng hợp.
4. Nguyễn Hoàng Phương (2011) Bài giảng cây lương thực 2. Trường ĐH Tây Bắc
5. Nguyễn Thị Lan (2005) Giáo trình phương pháp thí nghiệm đồng ruộng. NXB Nông nghiệp Hà Nội.
TS. NGUYỄN THỊ THANH NGA
Khoa Nông Lâm, Trường Đại học Tây Bắc