
Mở đầu
Ô nhiễm vùng biển ven bờ xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, một phần do tiếp nhận nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp. Hiện nay, nước thải công nghiệp đã được chú ý kiểm soát và xử lý, đặc biệt là nước thải phát sinh từ các khu công nghiệp (KCN), tỷ lệ các KCN có hệ thống xử lý nước thải tập trung là khá cao (88,05%). Tuy nhiên, chỉ có 15,8% các cụm công nghiệp (CCN) có hệ thống này. Bên cạnh đó, vẫn còn tình trạng một số cơ sở sản xuất kinh doanh nằm ngoài KCN, CCN xả nước thải không qua xử lý hoặc xử lý không đạt quy chuẩn vào các nguồn tiếp nhận tại các lưu vực sông, hồ và vùng biển ven bờ,...
Khu kinh tế Dung Quất, tỉnh Quảng Ngãi có đường bờ biển kéo dài khoảng 50 km từ xã Bình Thạnh huyện Bình Sơn đến xã Tịnh Kỳ thuộc TP. Quảng Ngãi. Vùng biển ven bờ KKT Dung Quất có nhiều nguy cơ bị ảnh hưởng bởi hoạt động của các KCN (KCN phía Tây Dung Quất, KCN phía Đông Dung Quất), hoạt động của các cảng biển (cảng Dung Quất 1, cảng cá Tịnh Hòa, cảng Sa Kỳ), hoạt động của các khu dân cư, khu đô thị (Khu đô thị Vạn Tường, Khu đô thị Sa Kỳ) và các hoạt động nuôi trồng thủy sản, trồng trọt,.. tại các khu vực ven biển. Do vậy, đánh giá khả năng tích lũy kim loại nặng trong nhuyễn thể hai mảnh vỏ (Bivalvia) là cần thiết để dự báo và phòng ngừa ô nhiễm môi trường vùng biển ven bờ khu kinh tế Dung Quất, tỉnh Quảng Ngãi.
Địa điểm và phương pháp nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu
Đề tài tiến hành khảo sát và chọn nghiên cứu tại 27 vị trí vùng biển ven bờ Khu kinh tế Dung Quất, tỉnh Quảng Ngãi, các vị trí lấy mẫu được mô tả trong Hình 1 sau:
Hình 1. 1. Vị trí lấy mẫu khu vực lấy mẫu
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thực nghiệm: Khảo sát và lấy mẫu trầm tích, nhuyễn thể hai mảnh vỏ (Bivalvia) theo tiêu chuẩn của Việt Nam. TCVN 6663-19:2015 (ISO 5667-139:2004):
Chất lượng nước - Lấy mẫu, Phần 19: Hướng dẫn lấy mẫu trầm tích biển.
Thời gian lấy mẫu: Tháng 04/2021. Kết quả lấy được 27 mẫu trầm tích biển và 5 mẫu nhuyễn thể hai mảnh vỏ (Bivalvia), các vị trí lấy mẫu là những vị trí vùng biển ven bờ khu kinh tế Dung Quất, tỉnh Quảng Ngãi.
Phương pháp phân tích: Phân tích các thông số: Cu, Pb, Zn, Cd và Cr được áp dụng TCVN 6496:2009: Chất lượng đất - Xác định Crom, Cadimi, Coban, Đồng, Chì, Mangan, Niken, Kẽm trong dịch chiết đất bằng cường thủy. Các phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử ngọn lửa và nhiệt điện (không ngọn lửa) [18].
Bảng 2.1. Vị trí lấy mẫu trầm tích và nhuyễn thể hai mảnh vỏ tại khu vực nghiên cứu
Phân tích hệ số khô kiệt, độ ẩm được áp dụng TCVN 4048:2011, Chất lượng đất - Phương pháp xác định độ ẩm và hệ số khô kiệt.
Phương pháp xử lý số liệu và đánh giá kết quả
Kết quả phân tích được đối chiếu với quy chuẩn Việt Nam QCVN 43:2017/ BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất lượng trầm tích và Thông tư 28:2019/TT-BTNMT Chất gây ô nhiễm và ngưỡng hàm lượng các thông số chất gây ô nhiễm trong chất nạo vét.
Để đánh giá khả năng hấp thụ kim loại nặng của nhuyễn thể hai mảnh vỏ (Bivalvia), sử dụng hệ số tích lũy sinh học trầm tích (BSAF: Biota - sendiment accumulation factor) là quan hệ sự tập trung tương đối của nồng độ một chất trong mô của sinh vật sống với nồng độ chất đó trong trầm tích, là tỷ số đo bằng nồng độ chất độc trong cơ thể sinh vật với nồng độ chất độc trong trầm tích. Công thức tính hệ số BSAF như sau:
Trong đó:
Cs là nồng độ chất ô nhiễm trong trầm tích (mg/kg trầm tích khô).
Ct là nồng độ chất ô nhiễm trong mô sinh vật (mg/kg ĐVĐ khô).
Sau khi tính toán hệ số tích lũy sinh học trong trầm tích (BSAF), ta tiến hành đối chiếu trong các khoảng sau:
Nếu BSAF < 1: Sinh vật có tích lũy sinh học trong trầm tích.
BSAF > 1: Sinh vật không tích lũy sinh học trong trầm tích.
Kết quả nghiên cứu
Kết quả xác định kim loại nặng trong trầm tích vùng biển ven bờ khu kinh tế Dung Quất, tỉnh Quảng Ngãi
Bảng 3.1. Kết quả hàm lượng Cu, Pb, Zn, Cd và Cr trong mẫu trầm tích khu vực nghiên cứu
Nhận xét: Kết quả phân tích trong bảng trên cho thấy, hàm lượng trung bình các kim loại nặng trong trầm tích đều nằm trong giới hạn cho phép của QCVN 43:2017/BTNMT (QCVN 43:2017/BTNMT: Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất lượng trầm tích) và TT28/2019/TT-BTNMT (Thông tư số 28:2019/TT-BTNMT Chất gây ô nhiễm và ngưỡng hàm lượng các thông số chất gây ô nhiễm trong chất nạo vét). Tuy nhiên, vẫn có một số vị trí bị vượt giới hạn cho phép nhưng không nhiều.
Kết quả xác định hàm lượng các kim loại Cu, Pb, Zn, Cd, Cr trong nhuyễn thể hai mảnh vỏ
Nhận xét: Kết quả phân tích trong bảng trên cho thấy, hàm lượng các kim loại nặng nằm trong giới hạn cho phép của QCVN 8-2:2011/BYT (Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với giới hạn ô nhiễm kim loại nặng trong thực phẩm) và Quyết định số 46/2007/QĐ-BYT (Quy định về Giới hạn tối đa ô nhiễm sinh học và hóa học trong thực phẩm). Điều này cho thấy, nhuyễn thể hai mảnh vỏ (Bivalvia) khu vực nghiên cứu chưa có dấu hiệu bị nhiễm kim loại nặng.
Bảng 3.2. Kết quả xác định hàm lượng các kim loại Cu, Pb, Zn, Cd, Cr trong nhuyễn thể hai mảnh vỏ (Bivalvia)
Đánh giá khả năng tích lũy kim loại nặng trong nhuyễn thể hai mảnh vỏ thông qua hệ số tích tụ sinh học BSAF
Từ kết quả xác định hàm lượng kim loại nặng trong trầm tích và nhuyễn thể hai mảnh vỏ (Bivalvia), tiến hành đánh giá khả năng tích lũy kim loại nặng trong nhuyễn thể hai mảnh vỏ (Bivalvia). Kết quả đánh giá khả năng tích lũy kim loại nặng trong nhuyễn thể hai mảnh vỏ thông qua hệ số tích lũy sinh học BSAF được thể hiện ở Bảng 3.3 sau:
Bảng 3.3. Hệ số tích tụ sinh học trong trầm tích của nhuyễn thể hai mảnh vỏ vùng biển ven bờ khu kinh tế Dung Quất, tỉnh Quảng Ngãi
Từ số liệu Bảng 3.3, hệ số BSAF được thể hiện ở biểu đồ sau:
Hình 3.1. Biểu đồ thể hiện khả năng tích lũy kim loại nặng trong nhuyễn thể hai mảnh vỏ thông qua hệ số tích lũy sinh học BSAF
Từ kết quả Bảng 3.4 và Hình 3.1 cho thấy, hệ số tích tụ sinh học trong trầm tích của nhuyễn thể hai mảnh vỏ dao động trong khoảng 0,003 đến 0,960. Trong đó, có tất cả các thông số BSAF < 1, tương ứng với sinh vật có tích lũy sinh học trong trầm tích. Sự tích lũy các kim loại Cu, Pb, Zn, Cd và Cr của nhuyễn thể hai mảnh vỏ (Bivalvia) khu vực nghiên cứu là tương đối thấp.
Kết luận
Hàm lượng trung bình các kim loại nặng trong trầm tích đều nằm trong giới hạn cho phép của QCVN 43:2017/BTNMT (QCVN 43:2017/BTNMT: Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất lượng trầm tích) và TT28/2019/TT-BTNMT (Thông Tư 28:2019/TT-BTNMT Chất gây ô nhiễm và ngưỡng hàm lượng các thông số chất gây ô nhiễm trong chất nạo vét). Hệ số tích tụ sinh học trong trầm tích của nhuyễn thể hai mảnh vỏ dao động trong khoảng 0,003 đến 0,960. Trong đó có tất cả các thông số BSAF < 1, tương ứng với sinh vật có tích lũy sinh học trong trầm tích. Sự tích lũy các kim loại Cu, Pb, Zn, Cd và Cr của nhuyễn thể hai mảnh vỏ (Bivalvia) khu vực nghiên cứu là tương đối thấp.
Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo đánh giá tác động môi trường dự án “Bến cảng tổng hợp - Container Hòa Phát Dung Quất (2021);
2. QCVN 08-2:2011/BYT: Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với giới hạn ô nhiễm trong thực phẩm;
3. QCVN 10-MT/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước biển;
4. QCVN 43:2017/BTNMT: Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất lượng trầm tích;
5. Quyết định 46/2007/QĐ-BYT Quy định giới hạn tối đa ô nhiêm sinh học và hóa học trong thực phẩm” của Bộ Y Tế ngày 19/12/2017;
6. TCVN 4048:2011, Chất lượng đất - Phương pháp xác định độ ẩm và hệ số khô kiệt;
7. TCVN 6496: 2009 (ISO 11047:1998), Chất lượng đất - Xác định Cadimi, Crom, Coban, Đồng, Chì, Mangan, Niken, Kẽm trong dịch chiết đất bằng cường thủy - Các phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử ngọn lửa và nhiệt điện (không ngọn lửa);
8. TCVN 6663-19:2015 (ISO 5667-139:2004): Chất lượng nước - Lấy mẫu, Phần 19: Hướng dẫn lấy mẫu trầm tích biển;
9. TCVN 6910-6: 2002 (ISO 5725-6: 1994) Độ chính xác (Độ đúng và độ chụm) của phương pháp đo và kết quả đo - Phần 6: Sử dụng các giá trị độ chính xác trong thực tế;
10. TCVN 8681:2011 Nhuyễn thể hai mảnh vỏ đông lạnh;
11. Thông Tư 28:2019/TT-BTNMT Chất gây ô nhiễm và ngưỡng hàm lượng các thông số chất gây ô nhiễm trong chất nạo vét.
HỒ THANH SANG1, NGUYỄN ĐÌNH TỨ2*, LƯU VĂN HUYỀN1, ĐỖ VĂN MẠNH3
1. Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội
2. Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật,Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam
3. Viện Công nghệ Môi trường,Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 16 (Kỳ 2 tháng 8) năm 2023