
Mở đầu
Thành phố Hồ Chí Minh đứng trước một thách thức to lớn trong việc đưa ra các chính sách, chiến lược, quy hoạch cho ngành công nghiệp để vừa giữ vững mức tăng trưởng và mức đóng góp cho toàn bộ nền kinh tế. Hướng tới mục tiêu đưa Thành phố thành trung tâm công nghiệp giữ vai trò đầu tàu của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và của cả nước, việc quy hoạch, sắp xếp, điều chỉnh lại các khu công nghiệp - cụm công nghiệp (KCN, CCN) tập trung trên địa bàn theo hướng chuyên môn hoá và hợp tác hoá kết hợp với phân bổ hợp lý, tập trung xây dựng một số KCN chuyên ngành là định hướng quan trọng trong việc xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trong phạm vi bài báo, nhóm tác giả tập trung vào việc đánh giá các quy hoạch này trong điều kiện biến đổi khí hậu thay đổi cực kỳ khắc nghiệt hiện nay, đưa ra các khuyến nghị nhằm tăng khả năng thích ứng của quy hoạch phát triển ngành công nghiệp Thành phố với sự BĐKH.
Thực trạng các chính sách chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đối với ngành công nghiệp Thành phố
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội của cả nước. Dù chỉ chiếm 0,6% diện tích và 9% dân số của cả nước, nhưng TP. Hồ Chí Minh chiếm 21,3% (GDP) và 29,38% tổng thu ngân sách của Việt Nam. Theo cơ cấu nền kinh tế năm 2020, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 33,72% (năm 2019 là 34,49%). Trong quý IV/2020, tốc độ tăng của sản xuất công nghiệp là 4,8% và tính chung cả năm 2020, giá trị ngành công nghiệp tăng 3,36% so với năm 2019.
Ngày 22/3/2018, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã thông qua Nghị quyết số 23-NQ/TW về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, với mục tiêu tổng quát là “đến năm 2030, Việt Nam hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực ASEAN về công nghiệp, trong đó một số ngành công nghiệp có sức cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển hiện đại”. Theo đó, định hướng phát triển công nghiệp TP. Hồ Chí Minh ưu tiên phát triển 4 nhóm ngành công nghiệp có hàm lượng KH&CN và giá trị gia tăng cao. Đối với 4 nhóm ngành công nghiệp (cơ khí; điện tử - công nghệ thông tin; hóa dược - cao su; chế biến tinh lương thực - thực phẩm) và ngành công nghệ sinh học, công nghiệp sạch, tiết kiệm năng lượng; công nghiệp thời trang ngành dệt may - da giày, công nghiệp thiết kế,... Thành phố sẽ chuyển dần từ hoạt động gia công lắp ráp sang hoạt động sản xuất, tiến đến xuất khẩu. Bên cạnh đó, Thành phố tiếp tục phát triển KCN công nghệ cao; bố trí sản xuất vào khu, CCN đã được quy hoạch; phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ phục vụ phát triển công nghiệp cơ khí, điện tử - tin học. Theo quy hoạch xây dựng vùng TP. Hồ Chí Minh đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2035, TP. Hồ Chí Minh đảm nhiệm vai trò trọng tâm hầu hết các lĩnh vực; đặc biệt là khoa học, công nghệ và kỹ thuật cao. KCN cao chuyên biệt được TP. Hồ Chí Minh quy hoạch có diện tích 380ha tại xã Phạm Văn Hai, huyện Bình Chánh tập trung quy mô lớn để cạnh tranh và tạo sức hút cho toàn khu vực.
Sự thay đổi về quy mô, phạm vi ranh giới một số khu công nghiệp trong nội thành; nhu cầu mở rộng hoặc thu hẹp quy mô để phù hợp với hiện trạng khu đất dành để phát triển KCN; sự gia tăng nhu cầu đầu tư xây dựng mới các KCN phục vụ chương trình di chuyển và sắp xếp lại các xí nghiệp công nghiệp gây ô nhiễm hiện bố trí xen lẫn trong khu dân cư nội thành về các KCN tập trung và nhu cầu quy hoạch xây dựng mới một số KCN chuyên ngành như cơ khí, điện tử, hóa chất,… là những động lực dẫn đến sự cần thiết điều chỉnh quy hoạch các KCN tại Thành phố. Mục tiêu chính của việc rà soát, điều chỉnh này nhằm đánh giá thực trạng phát triển và làm chính xác mạng lưới các KCN tập trung đã được bố trí. Việc điều chỉnh cục bộ quy hoạch xây dựng một số KCN cơ bản theo hình thức chuyên ngành, phát triển thành các KCN tập trung tạo điều kiện thực hiện chương trình di dời hệ thống cảng biển Thành phố và chương trình giải tỏa, sắp xếp lại các cơ sở công nghiệp hiện có gây ô nhiễm môi trường ở các khu dân cư trong nội thành cũ, đẩy nhanh tiến độ di dời các cơ sở sản xuất vào các khu, CCN, đồng thời thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển công nghiệp tạo động lực vững chắc cho phát triển Thành phố. Việc quy hoạch tập trung vào việc xác định quy mô diện tích, vị trí phân bổ, chủ yếu ở khu vực các quận nội thành mới và các huyện ngoại thành Thành phố, các loại hình sản xuất của các KCN, CCN hiện hữu và các khu, CCN lập mới trong giai đoạn 2020-2030, tầm nhình đến 2035. Xét trong điều kiện BĐKH, những định hướng, chính sách, quy hoạch trên cần có sự cân nhắc đánh giá các tác động của thay đổi khí hậu toàn cầu lên các hoạt động sản xuất công nghiệp, cụ thể lên quy hoạch phát triển các khu, CCN trên địa bàn Thành phố.
Đánh giá các chính sách trong điều kiện biến đổi khí hậu với ngành công nghiệp
Dưới tác động của sự thay đổi khí hậu khắc nghiệt với sự tăng nền nhiệt độ trong đô thị, tăng lượng mưa, mức dâng cao của mực nước biển và quá trình xâm ngập mặn là các ảnh hưởng chủ yếu và gây ra những tác động nghiêm trọng lên đời sống KT-XH của một vùng, đặc trưng là ảnh hưởng sâu sắc đến cơ sở hạ tầng của Thành phố. Như phần đánh giá ở trên, quy hoạch bố trí các khu, CCN trên địa bàn Thành phố tập trung về các quận nội thành mới và các vùng ngoại thành, là những nơi có điều kiện địa chất yếu, trũng thấp, nhiều sông rạch. Thành phố có một phần diện tích nằm theo lưu vực các con sông Sài Gòn, Nhà Bè và Đồng Nai, do vậy khi nước từ phía thượng nguồn đổ xuống thường làm ngập các khu vực ven sông và những nơi đất thấp như tại Quận 7, TP. Thủ Đức, Nhà Bè, Bình Chánh,… Với sự dâng cao của mực nước biển trong tương lai (khoảng 8-9 cm đến năm 2020, 23-27 cm đến năm 2050, 44-54 cm đến năm 2080 và 59-75 cm đến 2100), bản đồ nguy cơ ngập khu vực TP. Hồ Chí Minh ứng với kịch bản nước biển dâng 50 cm vào khoảng năm 2080 cũng cho thấy đa phần các khu ngoại thành (trừ một số nơi tại Củ Chi và Hóc Môn) và một số điểm tại khu nội thành mới đều chìm dưới mực nước biển.
Ngoài ra, theo dự báo của kịch bản phát thải, trong tương lai sau năm 2020, lượng mưa trung bình tại Thành phố sẽ tăng khoảng 0,9% và đến 2100 lượng mưa sẽ tăng khoảng 4,8%, nghĩa là lượng mưa sẽ ngày càng nhiều hơn, mưa to hơn, nhiều cơn mưa xuất hiện, tần suất diễn ra các cơn mưa to tăng dần,… Việc tăng lượng mưa theo dự báo cùng với sự ảnh hưởng của triều cường sẽ gây ngập lụt với mức độ ngày càng tăng. Với định hướng di dời các khu, CCN ra khỏi nội thành đến các khu tập trung nhằm giảm nguồn ô nhiễm trong các khu vực dân cư, việc bố trí các khu, CCN theo điều chỉnh quy hoạch tuy đạt được mục tiêu đặt ra, nhưng gặp phải trở ngại bởi ngập lụt ở các khu vực bên ngoài nội thành Thành phố như các phân tích trên sẽ dễ dàng xâm nhập vào và phá hoại các công trình hạ tầng kỹ thuật, cơ sở vật chất xây dựng phục vụ cho hoạt động của các khu, CCN. Để tránh tình trạng này, ở mức độ công trình, cần thiết phải có nghiên cứu về mức độ ngập ở những nơi quy hoạch bố trí các KCN, CCN để có giải pháp quy hoạch cốt nền hợp lý, tránh ảnh hưởng đến phần đế và móng các công trình. Việc sử dụng vật liệu bao che cho các công trình công nghiệp cũng nên có sự cân nhắc kỹ lưỡng dưới tác động của nhiệt độ gây giãn nở hoặc tác động của nước khi xảy ra ngập lụt hoặc mưa to, do một số vật liệu sẽ dễ bị phá hủy bởi quá trình oxy hóa và xâm ngập mặn do nước biển (phía Nam Quận 7, huyện Nhà Bè - nơi tiếp giáp khu vực Cần Giờ), làm giảm nhanh chóng tuổi thọ vật liệu và đòi hỏi bảo trì, sửa chữa thường xuyên, làm tăng nguồn vốn đầu tư và chi phí cho các công trình công nghiệp.
Ở mức độ quy hoạch, các khu, CCN khi lập quy hoạch mới hoặc điều chỉnh cần kết hợp với quy hoạch hệ thống đê bao và hệ thống tiêu thoát nước cho khu vực để có các phương án thoát nước dựa trên các số liệu dự báo về ngập lụt nhằm hạn chế các ảnh hưởng có thể tiên đoán trước bởi sự biến động của thời tiết khí hậu. Quy hoạch các hệ thống cây xanh vừa tạo cảnh quan, vừa là vành đai sinh thái cách ly vùng chức năng công nghiệp với khu dân cư đô thị cũng góp phần trong việc điều hòa lượng nước, đóng vai trò là vùng đệm trữ nước khi xảy ra ngập lụt. Đối với các khu vực đất yếu, nguồn nước ngầm cần phải được quản lý chặt chẽ, cấm khai thác để tránh sụt lún làm tăng tính nghiêm trọng khi chịu tác động bởi BĐKH
Kết luận và kiến nghị
Theo đánh giá về các quy hoạch, chiến lược phát triển ngành công nghiệp của Thành phố trong điều kiện của BĐKH tập trung điều chỉnh cục bộ quy hoạch xây dựng các KCN TP. Hồ Chí Minh đến năm 2030, có tính đến năm 2035 và điều chỉnh cục bộ quy hoạch xây dựng các CCN địa phương Thành phố đến năm 2030, có tính đến năm 2035. Cả hai quy hoạch điều chỉnh này đều chưa tính tới các tác động của BĐKH: Tình trạng ngập lụt khi lượng mưa tăng, nước sông dâng cao, triều cường, sự dâng cao của mực nước biển, quá trình xâm ngập mặn tại một số khu vực phía Nam Thành phố và sự tăng nền nhiệt độ trong đô thị theo các dự báo tại kịch bản phát thải khí nhà kính khi bố trí các khu, CCN bên ngoài khu nội thành. Việc tất yếu là các tác động này sẽ gây một số ảnh hưởng lên quá trình đầu tư, xây dựng, bảo trì, sửa chữa các công trình công nghiệp, làm tăng nguồn vốn, gây hư hại cho các công trình cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng tại các khu và CCN, đòi hỏi công tác quy hoạch phải chú trọng đến việc tăng khả năng thích ứng trong điều kiện thay đổi khí hậu toàn cầu. Một số giải pháp mang tính khuyến nghị làm cơ sở cho việc xem xét điều chỉnh hoặc lập mới quy hoạch các KCN, CCN trên địa bàn Thành phố, với hy vọng giảm thiểu các tác động của BĐKH lên quy hoạch phát triển công nghiệp của Thành phố trong tương lai như sau: Xem xét tập trung phát triển TP. Hồ Chí Minh theo hướng Tây Bắc, bởi khu vực này có nền đất cao; tìm các giải pháp cho vấn đề ngập lụt khi triển khai các dự án; có chính sách thu hút nguồn vốn đầu tư cho các KCN; tổ chức quy hoạch TP. Hồ Chí Minh cần có tầm nhìn dài hạn, đặc biệt là những tác động của BĐKH.
Tài liệu tham khảo
1. Bách khoa toàn thư Wikipedia, TP. Hồ Chí Minh, cập nhật ngày 20 tháng 1 năm 2021, https://vi.wikipedia.org/wiki/Thành_phố_Hồ_Chí_Minh;
2. Tổng cục Thống kê (2020), Báo cáo tình hình KT-XH quý IV và năm 2020, 27/12/2020;
3. Cổng thông tin đện tử Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2020), Chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, 9/9/2020;
4. Mỹ Phương (2019), TP. Hồ Chí Minh ưu tiên phát triển 4 nhóm ngành công nghiệp, 6/12/2019;
5. Như Huỳnh (1029), Ngành công nghiệp TP. HCM sẽ phát triển theo hướng công nghệ cao và kinh tế số, 07/12/2019, https://vietnambiz.vn/;6. Phan Lê (2019), TP. Hồ Chí Minh quy hoạch KCN mới, 23/12/2019;
6. Kịch bản BĐKH, nước biển dâng cho Viêt Nam, Bộ TN&MT, NXB TN&MT và Bản đồ Việt Nam, 2016.
HỒ THỊ PHƯƠNG THẢO, NGUYỄN HỒ VIỆT ANH
Trường Đại học Văn Lang