Đánh giá sự tham gia các bên liên quan trong quản lý xâm nhập mặn tại tỉnh Bến Tre

Thứ bảy, 4/6/2022, 06:12 (GMT+7)
logo Bến Tre đã và đang chịu ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn diễn ra hàng năm dẫn đến sinh kế của người dân gặp nhiều khó khăn, gây ra nhiều tác động tiêu cực đối với phát triển kinh tế - xã hội và do vậy, các cơ quan quản lý tại địa phương cần ban hành các văn bản quản lý nhà nước phù hợp, kịp thời nhằm giảm nhẹ thiệt hại.

An assessment of stakeholders’ engagement in saline water intrusion management in the Ben Tre province

ABSTRACT

Ben Tre province has been affected by yearly saline water intrusion, which has produced difficulties in the livelihoods of local residents and created significant barriers to the province's socio-economic development. When faced with these concerns, local management authorities are required to provide proper state management documentation in order to mitigate the damages. Previous studies have indicated problems in coordinating local inhabitants and state authorities in the formulation and implementation of policies. Therefore, the goal of this study was to assess the level of stakeholder engagement in dealing with saline intrusion using the Stakeholder Engagement principle from the Organization for Economic Cooperation and Development's (OECD) water resources governance framework combined with the World Hydrometeorological Organization's (WMO) framework. Secondary data was collected at provincial and district agencies and primary data was collected using Key Informant Panel (KIP). The collected data were analyzed by descriptive statistics and presented graphically. The study found that the basis for the participation of groups outside the state agencies was not clearly defined in terms of mechanisms leading to the low level of stakeholder participation in saltwater intrusion management. In addition, some households living in unfavorable geographical locations have difficulty in accessing the information on saltwater intrusion.

Keywords: Agriculture, aquaculture, saline water intrusion, stakeholder engagement.                             

TÓM TẮT

Bến Tre đã và đang chịu ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn diễn ra hàng năm dẫn đến sinh kế của người dân gặp nhiều khó khăn, gây ra nhiều tác động tiêu cực đối với phát triển kinh tế - xã hội và do vậy, các cơ quan quản lý tại địa phương cần ban hành các văn bản quản lý nhà nước phù hợp, kịp thời nhằm giảm nhẹ thiệt hại. Tuy vậy, việc xây dựng và triển khai thực hiện các văn bản đã được ban hành còn nhiều hạn chế, ở phạm vi địa phương và khu vực và do vậy, nghiên cứu được thực hiện để đánh giá đánh giá mức độ tham gia của các bên liên quan trong việc quản lý xâm nhập mặn trên nguyên tắc sự tham gia của các bên liên quan thuộc khung quản trị về tài nguyên nước của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) kết hợp với khung thang đo mức độ tham gia của tổ chức Khí tượng Thủy văn Thế giới (WMO). Các số liệu thứ cấp được thu thập tại các cơ quan địa phương cấp tỉnh, huyện và số liệu sơ cấp được thu thập bằng cách sử dụng phương pháp phỏng vấn người am hiểu (KIP). Nghiên cứu cho thấy, sự tham gia của các nhóm ngoài cơ quan nhà nước chưa được quy định rõ ràng về mặt cơ chế dẫn mức độ tham gia của các bên liên quan vào công tác quản lý xâm nhập mặn tại khu vực nghiên cứu còn chưa cao. Ngoài ra, một số hộ dân sống tại các vị trí xa đường lộ lớn, không nằm trong các khu vực đông dân còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận các thông tin về xâm nhập mặn.

Từ khóa: Nông nghiệp, thủy sản, xâm nhập mặn, sự tham gia các bên liên quan.

GIỚI THIỆU

Trước tình hình diễn biến phức tạp của biến đổi khí hậu, quản trị tài nguyên nước có sự tham gia của các bên liên quan đã và đang nhận được sự quan tâm tại nhiều quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêngsự tham gia của các bên liên quan ngày càng được xem là một phần không thể thiếu của các quy trình quản trị (Akhmouch & Clavreul, 2016; OECD, 2018; Rogers & Hall, 2003; Tortajada, 2010). Sự tham gia trong quản lý tài nguyên nước là quá trình mà các bên liên quan tham gia vào việc xây dựng và thực thi các chính sách liên quan đến quản lý tài nguyên nước; đây là yếu tố quan trọng đảm bảo việc khai thác và sử dụng tài nguyên được công bằng và hiệu quả. Thực tế cho thấy không có một giải pháp quản trị chung nào phù hợp cho tất cả các thách thức về nước trên toàn thế giới do sự đa dạng của các tình huống và do vậy, tùy vào từng vấn đề cụ thể mà các nguyên tắc có thể được lựa chọn để đảm bảo tính phù hợp với hoàn cảnh (OECD, 2015a). Để tất cả các bên liên quan có thể tham gia vào quá trình quản lý tài nguyên nước đòi hỏi phải có một cơ chế rõ ràng để các bên hiểu về vai trò và trách nhiệm của họ và theo tổ chức Khí tượng Thủy văn Thế giới (WMO, 2006), việc đánh giá mức độ tham gia của các bên có liên quan có thể được khái quát hóa theo các cấp độ khác nhau, từ việc tham gia chỉ để cung cấp thông tin cho đến việc tham gia để tự quản lý (Hình 1). Các bên liên quan bao gồm các cá nhân, nhóm hoặc tổ chức có quan tâm đối với các vấn đề liên quan đến nước, có thể bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp bởi chính sách liên quan đến nguồn nước cũng như có thể tác động đến hiệu quả thực hiện chính sách có liên quan (OECD, 2015b).

https://lh6.googleusercontent.com/GAtrQfYH526u8MCADQf2yYQNINqM78EHw5NveHPyZTnfIhu9hPuZAj7hMgTovmekIbK9o1PNmb5jD4sTUq-as8mskTivRzibu7wPKmMsOaESxr7f6G-ipmVHTRCIepMQwZn_hz4I

 Thang đánh giá mức độ tham gia của các bên liên quan trong công tác quản lý tài nguyên và thiên tai (WMO, 2006)

Theo Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc (2004) Tortajada (2010), quản trị tài nguyên nước bao gồm các quá trình và thể chế chính trị, kinh tế và xã hội, thông qua đó chính phủ, khu vực tư nhân và các thành phần xã khác có thể đóng góp vào quá trình đưa ra quyết định về cách sử dụng, phân bổ, phát triển và quản lý tài nguyên nước một cách hiệu quả nhất. Ngoài ra, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) xác định quản trị tài nguyên nước bao gồm phạm vi các quy tắc, điều lệ và thể chế chính trị, đảm bảo các bên liên quan được phép bày tỏ mối quan tâm của họ và các lợi ích họ có thể nhận được đối với quyết định được ban hành và triển khai tại địa phương cũng như những người ra quyết định phải chịu trách nhiệm về hiệu quả của công tác quản lý tài nguyên nước từ chính sách được ban hành (OECD, 2015a).

Tại Việt Nam, tài nguyên nước đã và đang được quản lý theo hướng tổng hợp và toàn diện nhằm hướng đến mục tiêu phát triển bền vững; theo đó, yêu cầu được đặt ra là phải quản lý hiệu quả các hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước và phòng, chốngkhắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra (Luật Tài nguyên nước, 2012). Hướng đến mục tiêu quản lý tài nguyên nước bền vững, Luật Tài nguyên nước (2012) quy định nguyên tắc lập quy hoạch tài nguyên nước (Điều 16) cần bảo đảm công khai, có sự tham gia của cộng đồng và các bên liên quan trong quá trình lập quy hoạch, góp phần đẩy mạnh sự tham gia rộng rãi của các thành phần trong và ngoài nhà nước trong việc khai thác, sử dụng và bảo vệ nguồn nước. Nghị quyết số 120/NQ-CP (ngày 17/11/2017) về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thích ứng với biến đổi khí hậu dựa trên cơ sở phát triển theo điều kiện của từng vùng, khai thác tiềm năng của từng vùng với sự tham gia, phối hợp của các bên từ cấp trung ương đến địa phương. Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững được ban hành tại Quyết định 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017) đã đề ra 17 mục tiêu phát triển bền vững với 115 mục tiêu cụ thể và Kế hoạch hành động của bộ, ngành, địa phương thực hiện; Chương trình nghị sự 2030 cũng đã đề cập đến việc phát huy vai trò và sự tham gia của các bên liên quan, “đảm bảo quá trình ra quyết định mang tính phản hồi, bao trùm, có sự tham gia của người dân và mang tính đại diện ở tất cả các cấp” (mục tiêu thứ 16).

ĐBSCL là khu vực có tầm quan trọng hàng đầu đối với an ninh lương thực quốc gia. Mặc dù vậy, tài nguyên nước ở ĐBSCL đang phải đối mặt với các vấn đề liên quan đến trữ lượng (ngập lụt và hạn hán) và chất lượng nước (suy giảm phù sa, nhiễm mặn và ô nhiễm nước), gây ra nhiều tác động tiêu cực đối với sản xuất nông nghiệp và sinh kế người dân. Do vậy, công tác quản lý tài nguyên nước nói chung và quản lý thiên tai nói riêng các cấp quản lý khác nhau cần đảm bảo tính hiệu quả và cần có sự tham gia của cộng đồng địa phương. Là một trong những địa phương dễ bị tổn thương trước những tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng ở ĐBSCL, Bến Tre đã gánh chịu nhiều tác động tiêu cực từ các đợt xâm nhập mặn, đặc biệt là trong khoảng thời gian cực đoan như mùa khô năm 2015 – 2016 và 2019 – 2020 (Nguyễn Văn Đào và Phạm Thị Thanh Bình, 2019; Phạm Thanh Vũ và ctv., 2020). Mặc dù sau đợt xâm nhập mặn 2015 – 2016, công tác quản lý ứng phó với xâm nhập mặn đã được người dân và chính quyền địa phương quan tâm,  mặn xâm nhập sớm và kéo dài vào mùa khô năm 2019 – 2020 đã gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp và đời sống người dân.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

    1.  

Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 03 đến tháng 09 năm 2021, tại các huyện Châu Thành, Giồng Trôm và Thạnh Phú (Hình 2) của tỉnh Bến Tre, với mức độ tác động khác nhau của xâm nhập mặn theo thời gian và không gian. Huyện Thạnh Phú hàng năm chịu tác động bởi xâm nhập mặn từ 8 đến 12 tháng; trong khi đó, huyện Giồng Trôm nhiễm mặn với thời gian ít hơn (khoảng 6 tháng trong năm) và tại huyện Châu Thành, khả năng cung cấp nước ngọt từ nguồn nước mặt gần như quanh năm, nguồn nước bị xâm nhập mặn khoảng t2 đến 3 tháng vào những năm xâm nhập mặn cực đoan.

Đánh giá sự tham gia các bên liên quan trong quản lý xâm nhập mặn tại tỉnh Bến Tre

Các khu vực nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Bến Tre

Cách tiếp cận đánh giá sự tham gia của các bên liên quan trong công tác phòng, chống quản lý xâm nhập mặn

Bộ nguyên tắc quản trị nước do OECD (2015a) xây dựng dựa trên 12 nguyên tắc, được chia thành 3 nhóm: Hiệu quả, Hiệu suất và Niềm tin - Sự tham gia; trong đó, nguyên tắt thứ 10 tập trung vào việc đảm bảo sự tham gia của các bên liên quan trong các quá trình quản lý nước và nguyên tắc này được áp dụng để đánh giá sự tham gia của các bên liên quan trong công tác quản lý xâm nhập mặn tại tỉnh Bến Tre. Tiêu chí đánh giá sự tham gia các bên liên quan trong công tác quản lý xâm nhập mặn của nghiên cứu này được trình bày chi tiết tại Bảng 1. Mức độ tham gia của các bên liên quan trong công tác quản lý xâm nhập mặn (một trong những khía cạnh của thiên tai) tại tỉnh Bến Tre được đánh giá thông qua thang đo mức độ tham gia của tổ chức Khí tượng Thủy văn Thế giới (WMO, 2006) (Hình 1); theo đó, thang đo bao gồm 6 mức độ tham gia, mức độ tham gia và kiểm soát đối với các quyết định càng lớn thì số lượng đại diện của các bên liên quan có thể tham gia càng ít.

Bảng 1. Tiêu chí đánh giá sự tham gia của các bên liên quan trong công tác quản lý xâm nhập mặn

STT

Tiêu chí

Nội dung

Phương pháp

1

Sự tồn tại của các cơ sở pháp lý cho sự tham gia của các bên liên quan

- Cơ sở pháp lý trong công tác ban hành văn bản có sự tham gia của các bên liên quan;

- Có sự tồn tại của nội dung (trong văn bản pháp lý) quy định về sự tham gia các bên liên quan cũng như vai trò và trách nhiệm của các bên;

- Sự phối hợp theo chiều dọc và chiều ngang của các cơ quan trong công tác ban hành văn bản chỉ đạo.

Lược khảo các văn bản quản lý nhà nước có liên quan trên các cổng thông tin điện tử của chính phủ, ủy ban nhân dân cấp tỉnh cũng như trực tiếp phỏng vấn và cập nhật thông tin từ các Sở ngành có liên quan và ủy ban nhân dân cấp huyện

2

Mức độ thực thi các văn bản pháp lý

Các rủi ro trong việc phối hợp giữa các bên liên quan

- Mức độ tham gia của các bên liên quan vào quá trình ra quyết định và thực thi các văn bản

- Khó khăn, thách thức trong quá trình ra quyết định và thực thi các văn bản

Lược khảo tài liệu kết hợp với phỏng vấn trực tiếp các bên liên quan

    1. Phương pháp thu thập số liệu
      1. Thu thập số liệu thứ cấp

Số liệu thứ cấp bao gồm các văn bản Luật và văn bản quản lý nhà nước quy định về vai trò, trách nhiệm và mức độ phối hợp của các bên liên quan trong công tác quản lý xâm nhập mặn được thu thập tại các cơ quan nhà nước và cổng thông tin điện tử từ cấp Trung ương đến cấp tỉnh, cấp huyện giai đoạn 2019 – 2021 nhằm xác định cơ sở pháp lý cho sự tham gia của các bên liên quan trong công tác quản lý xâm nhập mặn. Bên cạnh đó, các báo cáo về hiện trạng môi trường hằng năm và báo cáo thiệt hại rủi ro thiên tai (từ năm 2019 đến 2021) được thu thập tại Sở ngành có liên quan của Tỉnh Bến Tre.

Phương pháp lược khảo tài liệu về sự tham gia của người dân vào quá trình xây dựng chính sách liên quan đến quản lý tài nguyên nước được thực hiện bằng cách tìm kiếm các tài liệu khoa học với các từ khóa “tham gia”, “cộng đồng” và “xâm nhập mặn” bao gồm tiếng Việt và tiếng Anh trên trang Google Scholar. Kết quả trả về hơn 100 tài liệu, sau đó các kết quả được chọn lọc còn 60 tài liệu có liên quan dựa trên tiêu đề của các tài liệu. Sau khi tìm hiểu các nội dung từ 60 tài liệu, nhóm tác giả tiếp tục loại bỏ 27 tài liệu liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu sử dụng 33 tài liệu liên quan để phân tích nội dung chi tiết.

      1. Thu thập số liệu sơ cấp

Các số liệu sơ cấp được kiểm chứng và bổ sung thông qua phương pháp phỏng vấn người am hiểu (Key Information Panel - KIP) (Ryan et al., 2009) về sự tham gia của các bên liên quan trong công tác quản lý xâm nhập mặn. Các bên liên quan bao gồm 05 nhóm đối tượng: cơ quan nhà nước, nhà khoa học, tổ chức phi chính phủ, đơn vị tư nhân cộng đồng bị ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn (Bảng 2). Nhóm đối tượng phỏng vấn được xác định dựa trên phân tích các văn bản quy định về vai trò và trách nhiệm của các bên liên quan và tài liệu hướng dẫn quản lý thiên tai (WMO, 2006).

Phỏng vấn KIP được thực hiện bằng hình thức trực tuyến với số lượng là 17 phiếu. Nội dung phỏng vấn dựa trên thang đánh giá mức độ tham gia của các bên liên quan trong công tác quản lý xâm nhập mặn. Các nội dung thu thập bao gồm liên quan đến tác động của xâm nhập mặn đến sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản tại địa phương, vai trò và trách nhiệm của các bên liên quan trong công tác quản lý xâm nhập mặn, mức độ tham gia của các bên liên quan vào công tác quản lý xâm nhập mặnthuận lợi và khó khăn trong công tác quản lý xâm nhập mặn.

Bảng 2. Nhóm đối tượng phỏng vấn đánh giá sự tham gia của các bên liên quan trong công tác quản lý xâm nhập mặn trên địa bàn Tỉnh Bến Tre, giai đoạn 2019 - 2021

STT

Nhóm đối tượng

Mô tả chi tiết

1

 

Cơ quan nhà nước

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bến Tre

Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre

Đài Khí tượng Thủy văn tỉnh Bến Tre

Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bến Tre

Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam tỉnh Bến Tre 

Hội Nông dân tỉnh Bến Tre

Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Bến Tre

Hội Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị tỉnh Bến Tre

Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Châu Thành

Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Giồng Trôm 

Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Thạnh Phú

Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Châu Thành

Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Giồng Trôm 

Phòng Tài nguyên và Môi trường  huyện Thạnh Phú

2

Nhà khoa học

Nhà khoa học tại Trường Đại học Cần Thơ

3

Tổ chức phi chính phủ

Dự án Thích ứng với biến đổi khí hậu tại tỉnh Bến Tre (Dự án AMD Bến Tre)

4

Đơn vị tư nhân

Các doanh nghiệp tại địa phương

5

Cộng đồng địa phương