
GIỚI THIỆU
Tràm Chim được công nhận là VQG năm 1998, với diện tích 7.313 ha, thuộc hệ thống các khu rừng đặc dụng, nhưng đồng thời cũng được coi là khu bảo tồn đất ngập nước điển hình. Tràm Chim là nơi sinh sống và kiếm ăn của khoảng 200 loài chim, trong đó 16 loài có ý nghĩa bảo tồn toàn cầu. Loài đặc biệt quý hiếm là Sếu Đầu Đỏ, thường xuyên tới đây kiếm ăn, sinh sống trong mùa khô.
Trong công tác bảo vệ và phát triển, VQG Tràm Chim phải đối mặt với tình trạng dân cư xâm nhập và khai thác trái phép làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đa dạng sinh học, hệ sinh thái hiện hữu. Dân cư sinh sống xung quanh VQG Tràm Chim có nghề nghiệp chủ yếu là: làm nông, làm thuê, trồng trọt, đánh bắt thủy sản… (Phòng Lao động-Thương binh-Xã hội huyện Tam Nông, 2016), hầu hết các hoạt động sinh sống phụ thuộc khá nhiều đến việc khai thác tài nguyên. Những hành động của người dân tác hại rất lớn đến VQG, cụ thể là năm 2015 đã xảy ra 8 vụ cháy rừng làm thiệt hại 89 ha đồng cỏ và 0.1 ha tràm mà nguyên nhân chủ yếu là do người dân xâm nhập trái phép để sử dụng lửa bắt ong và săn bắt động vật rừng. Năm 1980, hơn 1000 cá thể Sếu đầu đỏ trên thế giới đổ về VQG thì tháng 2/2018 chỉ còn 11 cá thể, nguyên nhân là do mất đi nguồn thức ăn chính và tình trạng người dân lén lút vào rừng xuyệt cá, bắt ong làm ảnh hưởng trực tiếp đến đàn Sếu (Nguyễn Đức Tú, 2018).
Nhằm đánh giá các hoạt động sinh kế của người dân tác động lên vườn quốc gia, nghiên cứu “Đánh giá tác động của người dân đến khu vực VQG Tràm Chim tại xã Phú Thọ - Phú Đức, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp” đã được tiến hành.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
Thu thập các thông tin về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý và khu vực bị khai thác của VQG, các báo cáo từ Phòng tài nguyên, VQG, bài báo và các tài liệu liên quan trên internet.
Phương pháp đánh giá có sự tham gia của cộng đồng (PRA)
Sử dụng các công cụ như: Bản đồ tài nguyên, bản đồ lát cắt, lịch thời vụ, xếp hạng và phỏng vấn bán cấu trúc người dân tại xã Phú Thọ, xã Phú Đức.
Đối tượng nghiên cứu: Tập trung chủ yếu vào nhóm nam, nhóm nữ, nhóm trẻ em và nhóm nhập cư.
Bảng 1: Tình hình sinh kế của người dân tại 2 xã Phú Đức, Phú Thọ
Phương pháp xây dựng bản đồ bằng MapInfo
Áp dụng MapInfo để số hóa dữ liệu bản đồ của thảm thực vật, tài nguyên và khu vực bị tác động.
Phương pháp xử lý số liệu
Phương pháp phân tích định tính và phương pháp phân tích bản đồ để xử lý số liệu thu thập được từ thực địa.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Các hoạt động sinh kế của người dân tác động đến VQG
Kết quả nghiên cứu cho thấy những hoạt động khai thác tài nguyên và xâm nhập vào VQG gồm: khai thác cây mai dương, nhánh, cắt cỏ thực bì (năng ống); hái sen, súng; bắt ong, đánh bắt thủy sản; chăn nuôi gia súc theo phương thức thả rông.
Bảng 2: Các vật liệu mang vào VQG trong quá trình xâm nhập
X: không mang vào VQG
XX: có mang vào VQG
XXX: có mang thường xuyên
Bảng 3: Ý kiến của người dân về nguyên nhân dẫn đến cháy rừng
X: Không có khả năng
XXX: Có khả năng
XXXXX: Có khả năng cao
Hình 1: Bản đồ những điểm người dân xâm phạm vườn VQG được tạo bởi MapInfo
Hoạt động đánh bắt cá
Thường diễn ra từ tháng 7 đến tháng 12 (mùa lũ), thời gian đánh bắt từ 5 – 7 giờ chiều đến 3 – 4 giờ sáng hôm sau do nhóm nhập cư và nhóm nam thực hiện. Ngoài ra nhóm nhập cư còn xiệt cá bằng điện 2 lần/ ngày, vào 4-5 giờ đến 7-8 giờ sáng, trưa vào 13-14 giờ đến 16-17 giờ. Các hình thức đánh bắt thủy sản mang tính hủy diệt đang làm giảm đa dạng sinh học trong các sinh cảnh và các loài, kể cả những loài không phải là mục tiêu đánh bắt (Báo cáo diễn biến môi trường Việt Nam, 2005).
Hoạt động bắt ong
Nhóm nhập cư và nam thường bắt ong vào lúc 13-15 giờ mỗi lần thu được khoảng 1- 2 lít, mật ong có giá từ 1,5-1,8 triệu/lít. Cháy rừng thường do một số nguyên nhân như đốt lửa khai quang để lấy đất canh tác, thợ săn đốt lửa để xua đuổi thú và dọn chỗ, cháy do vô ý của người lấy mật ong, công nhân xây dựng và những người sống và làm việc trong rừng. Cháy rừng đặc biệt phổ biến ở các vùng sinh thái nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông nam bộ, Tây Nguyên và Tây bắc (Báo cáo diễn biến môi trường Việt Nam, 2005).
Hoạt động hái sen súng
Nữ thường tham gia hái sen súng vào tháng 6 đến tháng 12, trẻ em tham gia móc ngó sen từ tháng 3 đến tháng 5. Thời gian hái từ khoảng 3 - 5 giờ sáng mỗi lần thu được khoảng 3 – 4 kg. Sản phẩm thường đem bán trên ghe dọc những con kênh gần nhà, trung bình mỗi ngày thu được khoảng 200 - 300 ngàn.
Hoạt động chăn thả gia súc
Thường do nhóm nam, nữ trong gia đình thực hiện từ tháng 12 đến tháng 6. Người dân thường thả gia súc vào vườn từ khoảng 8 -15 giờ tại khu vực đồng cỏ và rừng tràm bên trong VQG. Việc chăn thả gia súc, dễ dẫn đến tình trạng khu vực đồng cỏ, lớp thực bì năng kim, năng ống bị giẫm đạp làm khả năng phát triển của năng giảm, mất đi nguồn thức ăn của một số loài chim. Theo Buckton và cộng sự (2000) (trích dẫn Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia, 2006) ngoài các chức năng thu hồi và điều tiết nước, điều hòa lũ lụt… các đồng cỏ ngập nước theo mùa cung cấp sinh cảnh sống cho nhiều loài chim. Các đồng cỏ còn là nơi có các quần xã thực vật đặc trưng.
Các hoạt động khác
Hầu hết các nhóm đều chặt mai dương, nhánh tràm làm củi phục vụ cho việc nấu ăn và sinh hoạt hằng ngày. Nhóm dân nhập cư và nhóm nam cũng đi làm thuê như: cắt cỏ năng để bán cho những hộ trồng kiệu gần khu vực vườn. Nhóm trẻ em thường vào vườn khi rảnh rỗi để săn bắn chim, vớt ốc.
Các tác động gián tiếp trong quá trình xâm nhập của người dân
Nghiên cứu cho thấy, người dân đã mang bọc ni long vào VQG để chứa thực phẩm và những vật liệu khác, ngoài ra còn mang theo chai, hộp nhựa để đựng nước uống và thức ăn và dùng chai thủy tinh để đựng cồn hoặc hóa chất phục vụ cho việc đánh bắt ong. Sau khi sử dụng xong thường vứt lại tại vườn. Đây là loại rác thải rất khó phân hủy và số lượng sẽ gia tăng thông qua các hoạt động trên.
Các rủi ro dẫn đến cháy rừng trong hoạt động sinh kế tác động đến VQG
Theo bảng 3, nguyên nhân cháy rừng do: bắt ong, bất cẩn vứt tàn thuốc và do tự nhiên Kết quả xếp hạng cho thấy, bắt ong được cho là nguyên nhân có khả năng cao nhất, tiếp đến là do sự bất cẩn trong việc vứt tàn thuốc còn lửa, cuối cùng là do tự nhiên.
Bản đồ khu vực người dân xâm phạm vườn VQG
Tại xã Phú Thọ sẽ có 2 đường để đến vành đai vườn quốc gia. Từ đường ĐT843 đến UBND Phú Thọ, qua đò 10 phút và đường đất phía sau nhà dân (khoảng 5 phút đi bộ) sẽ đến được vành đai VQG. Vị trí đánh bắt cá dọc bờ vành đai của phân khu A1 từ trạm C2 đến trạm C4. Khu vực chăn thả gia súc tại khu đồng cỏ và rừng tràm thuộc phân khu A1 giữa gò Vịt và gò Lau Vôi.
Tại xã Phú Đức do vành đai giáp ranh với nhà dân nên việc xâm nhập vào vườn rất dễ dàng (5 phút đi bộ). Khu vực đánh bắt cá dọc bờ vành đai của phân khu A1 từ trạm Phú Đức 2 đến trạm Phú Đức 1. Gia súc chăn thả tại khu vực gò Trâu, gò Tre và gần gò Lau Vôi. Khai thác mật ong tại khu vực đồng cỏ và rừng tràm giữa gò Vịt và gò Lau Vôi.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Người dân xâm nhập vào khu vực VQG để đánh bắt cá, chăn thả gia súc, bắt ong, hái rau, sen, súng, cắt thực bì, khai thác củi đun nấu từ mai dương, tràm.
Người dân thường đánh bắt, hái sen, súng chủ yếu vào mùa nước nổi (từ tháng 7 đến tháng 12) và chăn thả gia súc vào các tháng mùa khô (từ tháng 12 đến tháng 6 năm tiếp theo). Các hoạt động hái rau, bắt ong, chặt nhánh mai dương tràm lấy củi hầu như diễn ra quanh năm. Thời gian đánh bắt, khai thác mỗi ngày của người dân: Xiệt điện: 4 tiếng/lần; Giăng lưới: khoảng 10 tiếng/đợt; Bắt ong: 3 tiếng/lần. Tần suất đánh bắt: xiệt cá 2 lần/ngày; hái rau, bắt ong… mỗi ngày.
Việc xâm nhập vào VQG của người dân địa phương có nguy cơ gây cháy rừng do tàn thuốc hoặc lửa do bắt ong, đuổi côn trùng, hoặc ô nhiễm môi trường do rác thải nhựa trong quá trình xâm nhập để lại.
Kiến nghị
Đối với VQG Tràm Chim
Tiếp tục theo dõi, nghiên cứu sự tác động của người dân quanh khu vực VQG để nắm rõ tình hình và có phương án xử lí kịp thời.
Đẩy mạnh tuyên truyền với nhiều hình thức để tạo cho người dân có sự hiểu biết cũng như là ý thức trong việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, và ý thức được hậu quả nghiêm trọng trong việc sử dụng lửa, chất thải nhựa trong lãnh địa VQG.
Rà soát, đánh giá và thực hiện biện pháp sử dụng hợp lý tài nguyên rừng có sự tham gia của cộng đồng để chia sẻ lợi ích các bên nhằm ổn định cuộc sống cho cộng đồng dân cư vùng đệm.
Đối với chính quyền địa phương
Mở rộng quan hệ hợp tác từ các tổ chức trong nước và nước ngoài để đầu tư vào vùng đệm, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương tạo nhiều cơ hội việc làm cho người dân, hạn chế tối đa nguồn lao động nhàn rỗi.
Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia (2006) chuyên đề Đa dạng sinh học. NXB Tài nguyên – Môi trường.
2. Nguyễn Đức Tú. (2018). Truy vấn 29/12/2018 từ,https://baotainguyenmoitruong.vn/xa-hoi/vuon-quoc-gia-tram-chim-seu-dau-do-giam-bao-dong-1256510.html
3. Phòng lao động – Thương binh - Xã hội huyện Tam Nông. (2016). Thống kê tình hình mức sống và nhà ở của hộ dân huyện Tam Nông.
4. Trần Thanh Bé. (1999). Đánh giá nhanh nông thôn với sự tham gia của người dân. Tài liệu tập huấn – PRA Trà Vinh.
NGUYỄN THỊ BÉ PHÚC, NGUYỄN TRẦN NHẪN TÁNH
Khoa Kỹ thuật - Công nghệ - Môi trường, Trường Đại học An Giang
TRẦN KIM NGÂN
Sinh viên Khoa Kỹ thuật - Công nghệ - Môi trường, Trường Đại học An Giang