
Xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm triển khai
Dự án “Đánh giá tài nguyên khoáng sản, phục vụ khai thác cát biển đáp ứng nhu cầu san lấp các dự án đường cao tốc và hạ tầng giao thông, đô thị vùng đồng bằng sông Cửu Long” (dự án). Dự án do Bộ Tài nguyên và Môi trường triển khai xây dựng, phê duyệt, phê duyệt điều chỉnh, giao Cục Địa chất Việt Nam, trực tiếp là Liên đoàn Địa chất và Khoáng sản biển chủ trì cùng các đơn vị phối hợp thực hiện.
Mục tiêu của Dự án là đánh giá tài nguyên khoáng sản cát biển làm vật liệu xây dựng thông thường, đáp ứng kịp thời về nguồn vật liệu san lấp và cát xây dựng cho các dự án đường cao tốc, xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, đô thị, cảng biển, khu vực cụm công nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Các mục tiêu cụ thể là đánh giá tài nguyên cát biển làm vật liệu san lấp, xây dựng 1,4 tỷ m³; đánh giá, dự báo tác động của khai thác cát biển đến môi trường, đề xuất giải pháp khắc phục, bảo vệ; đề xuất công nghệ khai thác cát biển phù hợp và xác định khả năng, lĩnh vực sử dụng cát biển, đảm bảo sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên khoáng sản; đồng thời tạo cơ sở khoa học và thực tiễn đề xuất cơ chế chính sách quản lý thăm dò, khai thác cát biển, từng bước thay thế nguồn cát sông trên đất liền, phục vụ kịp thời, hiệu quả phát triển kinh tế xã hội.
Mục tiêu nhiệm vụ năm 2023 là đánh giá tài nguyên cát biển làm vật liệu san lấp tại khu B1 (0 - 10m nước) tỉnh Sóc Trăng, nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách về vật liệu san lấp cho các dự án đường cao tốc trong vùng đồng bằng sông Cửu Long khởi công trong giai đoạn 2023- 2024, với mục tiêu tài nguyên cấp 333 và 222 là 400 triệu m³, trong đó cấp 222 là 100 triệu m³.
Ông Vũ Tất Tuân - Chủ nhiệm dự án thuộc Liên đoàn Địa chất và Khoáng sản biển báo cáo tại cuộc họp
Theo ông Vũ Tất Tuân - Chủ nhiệm dự án thuộc Liên đoàn Địa chất và Khoáng sản biển cho biết: Hiện nay, Liên đoàn Địa chất và Khoáng sản biển đã hoàn thành báo cáo kết quả khu B1, đã được Cục Địa chất Việt Nam thẩm định ngày 11/11/2023, đã trình Bộ thẩm định, phê duyệt ngày 24/11/2023.
Về kết quả khu B1, Liên đoàn đã khoanh định được 1 thân khoáng cát biển có diện tích 161,4 km2, phân bố trên bề mặt đáy biển, thành phần là cát hạt mịn, bở rời, lẫn ít bột, sét. Thân cát có chiều dày từ 2- 7,3m, trung bình 4,3m; hàm lượng tổng cát trung bình là 82,9%; modul độ lớn trung bình 0,72, thuộc loại cát hạt mịn.
Đồng thời, đã đánh giá tài nguyên khoáng sản cát biển làm vật liệu san lấp cấp 333 và cấp 222 đạt 683,9 triệu m3, trong đó cấp tài nguyên 222 là 143,3 triệu m3.
Liên đoàn cũng đã xác định cát biển khu B1 đáp ứng yêu cầu làm vật liệu san lấp hạ tầng đô thị, nền móng công trình xây dựng; đáp ứng được các chỉ tiêu cơ bản làm vật liệu san lấp nền đường ô tô theo TCVN 9436:2012.
Bên cạnh đó, làm rõ đặc điểm địa hình, địa mạo đáy biển, địa chất, chế độ thủy động lực khu B1; làm rõ hiện trạng địa chất môi trường, tai biến địa chất khu vực nghiên cứu: xác định môi trường nước trong khu vực có biểu hiện ô nhiễm kẽm, nguy cơ ô nhiễm thủy ngân; trầm tích trong khu vực không bị ô nhiễm; không có biểu hiện tai biến địa chất; đường bờ biển khu vực biển Sóc Trăng hiện tại có xu thế bồi tụ.
Ngoài ra, Liên đoàn Địa chất và Khoáng sản biển đã lựa chọn khu vực khoáng sản cát biển diện tích 32 km2, chiều dày thân khoáng trung bình 4,5m, hàm lượng tổng cát 86%, tài nguyên cấp 222 là 143,3 triệu m3, phân bố tại khu vực biển độ sâu 2,8 - 9m, cách Cửa Định An 21km, có điều kiện khai thác khả thi. Liên đoàn đã đề xuất độ sâu khai thác đến 3m, tối đa 4m; phương pháp khai thác là sử dụng tàu hút xén thổi cỡ trung bình - nhỏ, vận chuyển bằng xà lan theo luồng hàng hải Định An đến nơi tiêu thụ.
Cũng theo ông Vũ Tất Tuân - Chủ nhiệm dự án thuộc Liên đoàn Địa chất và Khoáng sản biển cho biết: Liên đoàn đã đánh giá rõ và tin cậy về địa hình, địa mạo; địa chất; tài nguyên cát biển; địa chất môi trường, tai biến địa chất, thủy thạch động lực. Trên cơ sở đó, Liên đoàn Địa chất và Khoáng sản biển đề xuất diện tích 32km2 chuyển sang giai đoạn khai thác với tài nguyên cấp 222 là 143 triệu m3.
Đánh giá của các ủy viên phản biện
Các ủy viên phản biện và thành viên Hội đồng đã đánh giá cao kết quả đánh giá tài nguyên khoáng sản cát biển khu B1, đồng thời góp ý cho một số nội dung của dự án. PGS.TS. Nguyễn Phương - Tổng hội Địa chất Việt Nam, ủy viên phản biện cho biết, báo cáo kết quả đánh giá tài nguyên khoáng sản cát biển khu B1 đủ cơ sở để đánh giá chất lượng và tính tài nguyên cát làm vật liệu san lấp ở cấp 333, bước đầu đánh giá khả năng sử dụng trong lĩnh vực san lấp; đồng thời đã đề xuất khu vực chuyển sang khai thác và sơ bộ đánh giá hiện trạng môi trường vùng biển khu B1 và đề xuất giải pháp khắc phục. Về cơ bản, báo cáo đã hoàn thành mục tiêu và nhiệm vụ theo dự án được phê duyệt.
Toàn cảnh cuộc họp
PGS.TS. Hoàng Văn Long, Viện Dầu khí Việt Nam, cũng là ủy viên phản biện đánh giá, giai đoạn 1 của dự án đã hoàn thành đầy đủ các nội dung nghiên cứu theo đề cương và kế hoạch thi công đã được phê duyệt. Sản phẩm của dự án đầy đủ, đúng chủng loại. Hơn nữa, kết quả thu được đạt mục tiêu đề ra, phục vụ cho các yêu cầu trực tiếp từ thực tế sản xuất là cung cấp vật liệu san lấp cho các dự án đường cao tốc vùng Đông Nam Bộ. Sản phẩm và kết quả thu được đạt yêu cầu về chuyên môn, đầy đủ thông tin và đạt được mức độ tin cậy tương ứng với mạng lưới điều tra ở khu vực B1.
Ông Lê Văn Lượng, Phó Chánh Văn phòng Hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia, thành viên Hội đồng thẩm định đã đề cập đến những kết quả nổi bật như: Chất lượng khoan tốt; lấy và phân tích mẫu đảm bảo độ tin cậy; tính được tài nguyên ở mỏ; đề xuất được diện tích có triển vọng; kiến nghị công suất, thời gian, phương pháp khai thác.
Ông cho rằng đơn vị chủ trì thực hiện nhiệm vụ cần nghiên cứu bổ sung lĩnh vực sử dụng trước khi đưa vào khai thác, sử dụng cát. Đồng thời, đơn vị lưu ý khoáng sản titan sa khoáng đi kèm cát, các vị trí có hàm lượng cao, cần tiến hành thu hồi để tránh lãng phí tài nguyên.
Một số đề xuất
Ông Nguyễn Trường Giang, Cục trưởng Cục Khoáng sản Việt Nam, thành viên Hội đồng kiến nghị Liên đoàn Địa chất và Khoáng sản biển bổ sung, tiếp tục nghiên cứu đánh giá tác động môi trường nước biển, tác động vùng bờ, mức độ biến đổi tích tụ đáy biển; đồng thời, xem lại việc đánh giá tài nguyên 222 theo quy định.
Ông Trần Bình Trọng, Cục trưởng Cục Địa chất Việt Nam cho biết, trong quá trình thực hiện, Cục Địa chất Việt Nam, các đơn vị thi công Dự án xác định đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm; đã tập trung, nỗ lực, khắc phục mọi khó khăn, vướng mắc để thực hiện. Tuy nhiên, do thi công công trình địa chất trên biển gặp nhiều khó khăn, thời tiết trên biển diễn biến phức tạp, thiếu thiết bị chuyên dụng,…nên thi công thực địa kéo dài, làm tăng các chi phí khác kèm theo.
Các đơn vị thực hiện dự án đề nghị Bộ TN&MT sớm ban hành bộ định mức kinh tế kỹ thuật cát biển làm cơ sở để điều chỉnh dự toán dự án và áp giá mới cho khối lượng thực hiện năm 2023. Đồng thời, Bộ quan tâm, làm việc với Bộ Tài chính để chuyển vốn các hạng mục công việc đang ở mục chi không thường xuyên (địa vật lý, địa chất, ống phóng rung…) thành nguồn thường xuyên để thanh toán năm 2023, đảm bảo quyền lợi người lao động. Ngoài ra, các đơn vị cũng kiến nghị Bộ cho điều chỉnh Dự án theo thực tế thi công và bố trí đủ vốn để hoàn thành dự án trong năm 2024.
Liên đoàn Địa chất và Khoáng sản biển đã lựa chọn được khu vực diện tích 32 km2 có khoáng sản cát làm vật liệu san lấp với tài nguyên cấp 222 là 142,5 triệu m3, khả thi để chuyển sang giai đoạn thăm dò khai thác. Bên cạnh đó, kết quả năm 2023 của dự án còn tạo cơ sở khoa học để bổ sung, hoàn thiện quy định kỹ thuật, định mức kinh tế kỹ thuật về điều tra, đánh giá, thăm dò khoáng sản cát biển; đồng thời củng cố, nâng cao năng lực điều tra địa chất, khoáng sản biển.
Bảo Trâm