
Kết quả nghiên cứu cho thấy, các cở sở nhỏ, lưu lượng nước thải phát sinh dưới 50 m3/ngày đêm, phần lớn có quy trình xử lý nước thải đơn giản, chủ yếu xử lý bằng bể sục khí, sau đó khử trùng bằng chlorin rồi xả vào nguồn tiếp nhận, do đó chất lượng nước sau xử lý không đạt QCVN. Để kiểm soát chất lượng nước cần kết hợp giải pháp về quản lý (xây dựng cơ chế, chính sách quả lý môi trường cho trường hợp cở sở, nhà máy chế biến thuỷ sản dựa trên tình hình thực tế tại địa phương) và giải pháp kỹ thuật (xây dựng quy trình công nghệ xử lý chuẩn cho một số nhà máy sản xuất chế biến thuỷ sản điển hình và nhân rộng cho các nhà máy khác).
Từ khoá: Chế biến thuỷ sản; giải pháp BVMT; công nghệ xử lý; chính sách môi trường.
Đặt vấn đề
Tỉnh Bạc Liêu thuộc vùng ĐBSCL, có tổng diện tích tự nhiên khoảng 257.094 ha, gồm 7 đơn vị hành chính (01 thành phố, 01 thị xã, 05 huyện): Thành phố Bạc Liêu, thị xã Giá Rai, các huyện Vĩnh Lợi, Hòa Bình, Đông Hải, Hồng Dân và Phước Long, với tổng cộng 64 đơn vị hành chính cấp xã (xã, phường, thị trấn).
Theo số liệu niên giám thống kê, thời kỳ 2005-2015 kinh tế Bạc Liêu tăng trưởng cao và liên tục, thể hiện qua giá trị GDP (giá thực tế) tăng từ 7.784 tỷ đồng (năm 2005) lên 17.504 tỷ đồng (năm 2010) và 34.828 tỷ đồng (năm 2014). Nếu tính theo giá so sánh 1994, thì GDP năm 2014 đạt gấp hơn 2,5 lần so với năm 2005. Tăng trưởng bình quân giai đoạn 2005-2015 là 10,57 %/năm, cao hơn mức trung bình của cả nước.
Theo đánh giá của Chi cục BVMT tỉnh Bạc Liêu [3], hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập về BVMT ngành chế biến thủy sản trên địa bàn tỉnh như: Các cơ sở chế biến thủy sản chưa đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải, hoặc đã đầu tư nhưng vận hành chưa đồng bộ, mang tính chất đối phó, công tác triển khai thu phí BVMT đối với các cơ sở này còn gặp nhiều khó khăn.
Dựa trên những yếu tố khách quan và chủ quan trên, đề xuất “Đề xuất một số giải pháp BVMT cho các cơ sở chế biến thủy sản - Áp dụng tại Bạc Liêu” cần được nghiên cứu góp phần vào công tác bảo vệ và kiểm soát chất lượng nguồn nước mặt tại địa phương.
Nội dung và phương pháp nghiên cứu
Nội dung 1: Khảo sát, điều tra thực tế, đánh giá thực trạng môi trường nước mặt
Khảo sát thực tế, điều tra thu thập các thông tin về tỉnh hình hoạt động sản xuất; thu thập mẫu chất thải sau xử lý: Nước thải; xây dựng bản đồ vị trí lấy mẫu; đánh giá hiện trạng việc tuân thủ các quy định pháp lý về BVMT; đánh giá hiện trạng phát sinh chất thải, tính toán tải lượng ô nhiễm chất ô nhiễm phát thải vào môi trường.
Nội dung 2: Đề xuất các giải pháp BVMT tại các cơ sở CBTS.
Các giải pháp công trình và các giải pháp phi công trình.
Kết quả và thảo luận
Khảo sát, điều tra thực tế, đánh giá thực trạng môi trường nước mặt
Bảng 3.1. Tổng hợp kết quả phân tích chất lượng nước mặt năm 2017
(Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo Kết quả quan trắc môi trường tỉnh Bạc Liêu đợt 1/2017).
Nhận xét: Mẫu nước mặt thực hiện khảo sát, tất cả đều có ít nhất 01 thông số vượt giới hạn cho phép của quy chuẩn. Đặc biệt, có 14/16 mẫu khảo sát có giá trị BOD5, COD vượt giới hạn cho phép của QCVN 08-MT:2015/BTNMT (Cột B1). Nhìn chung, nguồn nước mặt trên địa bản tỉnh Bạc Liêu bị ô nhiễm hữu cơ.
Đánh giá hiện trạng Đánh giá hiện trạng công trình xử lý nước thải.
Qua khảo sát thực tế, thu thập thông tin tại 53 cơ sở CBTS trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu nhận thấy: Tất cả các cơ sở đều đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải trước khi xả ra nguồn tiếp nhận, tổng lưu lượng nước thải phát sinh khoảng 5.997,2 m3/ngày đêm.
Bảng 3.2. Thống kê lưu lượng nước thải theo đơn vị hành chính
Đối với các cơ sở có lưu lượng nước thải lớn, thuộc quyền quản lý cấp tỉnh, hệ thống xử lý nước thải được đầu tư hiện đại, kết hợp nhiều phương pháp trong quá trình xử lý: Cơ học, hóa lý và xử lý sinh học.
Đối với các cơ sở có lưu lượng nước thải phát sinh nhỏ (dưới 50 m3/ngày đêm), phần lớn có quy trình xử lý nước thải đơn giản, chủ yếu xử lý bằng bể sục khí, sau đó khử trùng bằng chlorin rồi xả vào nguồn tiếp nhận.
Quy trình xử lý nước thải điển hình tại các cơ sở CBTS như sau: Các cơ sở CBTS có quy mô hoạt động nhỏ đầu tư hệ thống XLNT với quy trình xử lý đơn giản (Nước thải => bể sục khí => bể lắng => bể khử trùng => nguồn tiếp nhận), các công trình đơn vị không có khả năng xử lý các chất ô nhiễm trong nước thải. Hệ quả là có 32/46 mẫu nước thải vượt giới hạn cho phép của quy chuẩn.
Đánh giá chung
Tất cả cơ sở CBTS đều đã đầu tư hạng mục xử lý nước thải trước khi xả thải ra môi trường. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác vận hành hệ thống đúng quy trình, đúng kỹ thuật còn bỏ ngỏ, chưa được quan tâm đúng mức.
Cán bộ quản lý môi trường phụ trách công tác vận hành, bảo trì hệ thống XLNT thường kiêm nhiệm, chưa được đào tạo kiến thức cơ bản về chuyên môn.
Nhiều cơ sở hoạt động sản xuất với quy mô nhỏ, công nghệ sản xuất lạc hậu, quan điểm kinh doanh chính là tăng thu nhập, chưa quan tâm đầu tư đúng mức cho công tác xử lý nước thải, BVMT.
Tác động từ hoạt động của các cơ sở CBTS
Tải lượng ô nhiễm trong nước thải các cơ sở CBTS
Dựa vào kết quả phân tích nồng độ các chất ô nhiễm có trong nước thải và lưu lượng nước thải phát sinh, đề tài tính được tải lượng các chất ô nhiễm phát sinh hàng ngày tại các cơ sở CBTS được trình bày ở bảng sau:
Bảng 3.2. Tải lượng ô nhiễm trong nước thải CBTS
Kết quả thống kê tải lượng chất ô nhiễm phát sinh trong nước thải tại các cơ sở CBTS trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu, tổng tải lượng các chất ô nhiễm khoảng 867,01 kg BOD5/ngày, 282,23 kg TSS/ngày, 1.666,96 kg COD/ngày, 73,65 kg N-NH4+/ngày, 253,36 kg Tổng N/ngày, 52,36 kg Tổng P/ngày, 27,79 x 106 MPN Coliforms/ngày. Trong đó, tải lượng chất ô nhiễm phát sinh cao nhất ở TX Giá Rai. Tại các huyện Phước Long, Hoà Bình tải lượng chất ô nhiễm hàng ngày trong nước thải CBTS phát sinh ít hơn.
Tác động tiêu cực đến các hoạt động kinh tế:
Trong quá trình hoạt động, lĩnh vực CBTS phát sinh lượng lớn nước thải và chất thải rắn hữu cơ dễ phân hủy. Nguồn tiếp nhận nước thải của các cơ sở CBTS là các nguồn nước mặt tự nhiên trên địa bàn tỉnh, cụ thể: Kênh Xáng Bạc Liêu - Cà Mau, kênh Láng Trâm, kênh Cái Cùng, sông Bạc Liêu, sông Tắc Vân, kênh Quản Lộ Phụng Hiệp,… Hệ thống kênh rạch này ngoài tiếp việc tiếp nhận nước thải của các cơ sở sản xuất (bao gồm lĩnh vực chế biến thủy sản) còn cung cấp nước phục vụ sản xuất cho các lĩnh vực: Nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi và nguồn nước đầu vào cho Nhà máy cấp nước Bạc Liêu. Do đó, khi nguồn nước mặt bị ô nhiễm gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng nguyên liệu đầu vào của các lĩnh vực sản xuất nói trên, góp phần làm ảnh hưởng chất lượng, giá trị sản phẩm.
Thực trạng các cơ sở CBTS không thực hiện đầy đủ các hồ sơ, thủ tục môi trường gây thiệt hại về kinh tế cho nhà nước, cụ thể là các khoản thu: phí thẩm định hồ sơ; phí khai thác, sử dụng nước dưới đất; phí BVMT đối với nước thải.
Ngoài ra, ô nhiễm môi trường có tác động tiêu cực đến mỹ quan đô thị, giảm sức hút khách du lịch, gián tiếp gây sụt giảm doanh thu ngành du lịch nói chung trên địa bàn tỉnh.
Tác động đến môi trường tự nhiên và sức khỏe con người
Ô nhiễm không khí tại các cơ sở CBTS chủ yếu từ các phế phẩm có nguồn gốc hữu cơ trong quá trình sản xuất (đầu, vỏ, nội tạng hải sản), thời gian phân hủy nhanh cộng với việc được lưu trữ trong các thùng chứa không có nắp đậy làm bốc mùi hôi tanh, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người lao động làm việc trực tiếp tại các cơ sở và các hộ dân trong khu vực.
Nước thải sau xử lý không đạt chuẩn của các cơ sở CBTS chứa hàm lượng lớn chất hữu cơ và vi khuẩn coliform gây ô nhiễm nguồn nước mặt tự nhiên khu vực tiếp nhận, điều này gián tiếp gây suy giảm chất lượng môi trường đất và nước dưới đất trong khu vực.
Đề xuất các giải pháp BVMT tại các cơ sở Chế biến thuỷ sản
Giải pháp về cơ chế chính sách
Xây dựng cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ các các cơ sở CBTS nằm trong khu dân cư di dời vào các khu sản xuất tập trung. Đặc biệt là Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Bạc Liêu đã đi vào hoạt động tại xã Hiệp Thành - TP. Bạc Liêu.
Sở TNMT trường phối hợp với Phòng TN&MT cấp huyện cần thường xuyên tổ chức các buổi gặp gỡ cán bộ quản lý môi trường/chủ cơ sở CBTS, tập trung vào các vấn đề môi trường đang còn tồn đọng: Phổ biến kiến thức, tập huấn cơ bản về vận hành công trình xử lý chất thải, đảm bảo cán bộ quản lý môi trường tại các cơ sở CBTS có khả năng vận hành các công trình xử lý chất thải.
Xây dựng mô hình quản lý môi trường cấp xã: Trên thực trạng các cơ sở CBTS hoạt động với quy mô nhỏ, nằm xen kẽ khu dân cư, cộng với lực lượng cán bộ quản lý môi trường cấp tỉnh/huyện còn mỏng gây khó khăn trong công tác quản lý, giám sát. Trên cơ sở đó, đề tài đề xuất mô hình quản lý môi trường cấp xã như sau: Cán bộ chuyên trách môi trường cấp xã được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với yêu cầu công tác quản lý nhà nước về BVMT, hỗ trợ đắc lực cho cơ quan quản lý môi trường cấp huyện/tỉnh, tăng cường hiệu quả trong công tác quản lý môi trường cấp cơ sở.
Thanh kiểm tra đáp ứng các quy định pháp luật của cơ quan quản lý nhà nước: Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động của các cơ sở CBTS nhằm ngăn chặn, xử lý kịp thời các hoạt động vi phạm pháp luật về BVMT, đặc biệt là các cơ sở không tuân thủ Luật BVMT theo kết quả điều tra, thu thập thông tin của đề tài. Kiểm tra kiểm soát hoạt động xả nước thải không đạt quy chuẩn gây ô nhiễm môi trường. Theo kết quả phân tích mẫu nước thải, có 32/46 cơ sở CBTS có mẫu nước thải nằm ngoài giới hạn cho phép, các thông số vượt chuẩn từ 01 lần đến 32 lần so với QCVN 11-MT:2015/BTNMT.
Xử phạt hành chính các cơ sở vi phạm theo quy định tại Nghị định số 155/2016/NĐ-CP về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT. Cương quyết áp dụng các biện pháp cưỡng chế và đình chỉ hoạt động đối với các cơ sở sản xuất vi phạm nhiều lần các quy định về BVMT.
Vận động, khuyến khích các cơ sở giảm thiểu ô nhiễm bằng việc áp dụng thí điểm các chương trình như sản xuất sạch, sản xuất sạch hơn, đầu tư thay mới hệ thống máy móc và áp dụng ISO 14001.
Giải pháp kỹ thuật công nghệ xử lý nước thải
Ô nhiễm trong các hoạt động CBTS chính là nguồn nước thải từ nước rửa nguyên liệu, thành phẩm, nước vệ sinh nhà xưởng sản xuất, nước rửa máy móc thiết bị, dụng cụ sản xuất trong các phân xưởng với thành phần như: BOD5, COD, chất rắn lơ lửng (SS), tổng Nitơ, tổng photpho, vi sinh Coliforms,…
Đầu tư trạm quan trắc tự động, liên tục đối với nước thải: Theo quy định tại Nghị định 40/2019/NĐ-CP ngày 13/05/2019 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật BVMT có hiệu lực từ 01/07/2019: các cơ sở CBTS có lưu lượng nước thải từ 500 m3/ngày đêm trở lên bắt buộc lắp đặt hệ thống quan trắc tự động, liên tục đối với nước thải trước khi xả ra môi trường, các thông số bắt buộc tối thiểu: lưu lượng, pH, nhiệt độ, COD, TSS, Amoni.
Công nghệ cần khuyến khích để BVMT: Khuyến khích đầu tư cải tiến công nghệ sản xuất, từ đó giảm phát thải chất thải, đặt biệt là nước thải.
Tài liệu tham khảo
1. Cục Thống kê tỉnh Bạc Liêu, ”Niên giám thống kê tỉnh Bạc Liêu năm 2018,” Nhà xuất bản thống kê, Bạc Liêu, 2018;
2. Cục Thống kê tỉnh Bạc Liêu, ”Niên giám thông kê tỉnh Bạc Liêu năm 2015,” Nhà xuất bản thống kê, 2015;
3. Chi cục BVMT, ”Báo cáo tổng kết ngành TN&MTnăm 2018,” Sở TN&MT Bạc Liêu, 2018;
4. Vasep, ”vasep.com.vn,” Vasep, 2019. [Online]. Available: http://vasep.com.vn/1192/OneContent/tong-quan-nganh.htm;
5. Nguyễn Thị Thanh Phương, ”Đánh giá hiện trạng môi trường tại một số làng nghề chế biến thủy sản trên địa bản tỉnh Nghệ An,” Trường Đại học Khoa học tự nhiên - Đại học quốc gia Hà Nội , 2014;
6. Nhóm tác giả thuộc Khoa Tài nguyên và Môi trường, Trường Đại học Đồng Tháp, ”Đặc tính bùn thải từ hệ thống xử lý nước thải của nhà máy sản xuất bia và chế biến thủy sản,” Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Cần Thơ, pp. 74-81 , 2016.
LÊ VIỆT THẮNG
Trường Đại học Công nghiệp, TP. Hồ Chí Minh
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 9 năm 2024