
Ảnh minh họa.
Chuyển nước giữa các lưu vực sông
Nước ta có 6 công trình chuyển nước lớn, quan trọng, chủ yếu là các công trình thủy điện và thủy lợi. Điển hình có thể kể đến công trình chuyển nước ở LVS Vu Gia - Thu Bồn (thủy điện Đắk Mi 4 chuyển nước từ sông Vu Gia sang sông Thu Bồn); ở LVS Ba (thủy điện An Khê - Kanak chuyển nước từ sông Ba sang sông Kôn, Bình Định), LVS Sê San (thủy điện Thượng Kon Tum chuyển nước sang sông Trà Khúc, Quảng Ngãi), ở LVS Đồng Nai (thủy điện Đơn Dương chuyển nước sang Ninh Thuận; thủy điện Đại Ninh chuyển nước sang tỉnh Bình Thuận và hồ thủy lợi Phước Hòa chuyển nước sang hồ Dầu Tiếng, tỉnh Tây Ninh). Với lưu lượng chuyển nước lớn của các hồ Đơn Dương, Đại Ninh đã làm gia tăng đáng kể lượng nước, bổ sung nước để cấp cho các hoạt động sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt của các tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận và có thể nói nếu không có việc chuyển nước của các hồ này thì tình trạng thiếu nước ở 2 tỉnh này sẽ càng trở nên trầm trọng.
Việc chuyển nước của một số công trình tạo ra nhiều tác động tích cực cho các lưu vực được nhận chuyển nước là điều không thể phủ nhận, không chỉ bổ sung một lượng nước đáng kể cho các lưu vực này để cấp cho các hoạt động sản xuất, cấp nước cho công nghiệp, sinh hoạt,... mà còn góp phần tạo nguồn nước đáng kể để phát triển tiềm năng thủy điện trên các lưu vực. Để tận dụng lượng nước được chuyển từ các nhà máy thủy điện, các địa phương đã quy hoạch, xây dựng các công trình thủy điện vừa và nhỏ, các hồ chứa, đập dâng, các công trình thủy lợi để tận dụng, điều tiết lượng nước này để phát triển nguồn điện đóng góp vào lưới điện quốc gia, địa phương, nâng cao bảo đảm an ninh năng lượng cho địa phương cũng như bảo đảm cho các hoạt động sản xuất nông nghiệp và cấp nước sinh hoạt, đặc biệt trong các thời kỳ hạn hán, thiếu nước nghiêm trọng. Tuy nhiên, có một số công trình chuyển nước chưa thực sự xem xét đầy đủ việc tác động đến chế độ thủy văn, nguồn nước, cũng như ảnh hưởng đến các nhu cầu sử dụng nước ở hạ du, các LVS bị chuyển nước, đã và đang có những tác động không nhỏ đến các hệ sinh thái và hoạt động phát triển KT-XH trên các lưu vực,... đã làm gia tăng áp lực cấp nước cho hoạt động phát triển công nghiệp và các nhu cầu cấp nước đô thị ở khu vực hạ lưu, đặc biệt là vào mùa khô của các LVS bị chuyển nước.
Thực tế này càng làm tăng nguy cơ khan hiếm nước và dẫn đến cạnh tranh về nguồn nước ngày càng gay gắt hơn, sâu sắc hơn. Cạnh tranh về nước không còn đơn thuần chỉ xảy ra giữa các ngành dùng nước trên một LVS mà còn xảy ra ngay cả trong cùng một ngành sử dụng nước, đặc biệt là mâu thuẫn trong sử dụng nước giữa thượng và hạ lưu của lưu vực.
Điều hòa, phân bổ tài nguyên nước
Việc điều hòa, phân bổ TNN, chuyển nước LVS đã được quy định cụ thể trong Luật TNN năm 2012, theo đó việc điều hòa, phân bổ nguồn nước trên các LVS được giao cho Bộ TN&MT. Trong thời gian qua, với sự phát triển mạnh mẽ của KT-XH, sự gia tăng ngày càng lớn của các hoạt động sử dụng nước cộng với tác động nặng nề của BĐKH,… đã và đang đặt ra nhiều thách thức trong việc quản lý, bảo vệ nguồn nước, trong đó có thể kể đến thách thức về khai thác, sử dụng nguồn nước chưa hợp lý, lãng phí. Nhu cầu sử dụng nước gia tăng trong khi tình trạng sử dụng nước lãng phí, kém hiệu quả còn khá phổ biến; chưa bảo đảm việc sử dụng tổng hợp, đa mục tiêu, hiệu quả TNN, nhất là huy động nguồn nước của hệ thống các hồ chứa tham gia điều tiết dòng chảy cho hạ du,...
Điều 60 Luật TNN năm 2012 đã quy định trách nhiệm của Bộ TN&MT lập danh mục các hồ chứa phải vận hành theo quy trình vận hành liên hồ chứa trên các LVS và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Bộ đã tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành phê duyệt 11 quy trình vận hành liên hồ chứa cho cả mùa lũ và mùa cạn trên các LVS Hồng, Mã, Cả, Hương, Vu Gia-Thu Bồn, Sê San, Srê Pốk, Ba, Trà Khúc, Kôn và sông Đồng Nai. Bộ đã thực hiện rà soát, đánh giá tình hình thực hiện các quy trình vận hành liên hồ chứa trên các LVS đã được ban hành để nghiên cứu, chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với tình hình nguồn nước và nâng cao hiệu quả cắt, giảm lũ trong mùa lũ, điều tiết cấp nước trong mùa cạn, đặc biệt là phù hợp diễn biến nguồn nước ngày càng phức tạp do ảnh hưởng của BĐKH gây ra cũng như việc gia tăng các hoạt động khai thác, sử dụng nước phía hạ du. Đến nay, Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành điều chỉnh 11 quy trình vận hành liên hồ chứa nêu trên.
Việc thực hiện theo quy định của Quy trình vận hành liên hồ chứa trên 11 LVS có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm bảo đảm điều hòa, phân bổ nguồn nước cũng như sử dụng tổng hợp nguồn nước và phòng chống tác hại do nước gây ra. Đây cũng là cơ sở pháp lý cho việc quản lý, sử dụng hợp lý, hiệu quả hơn nguồn nước của các hồ chứa thủy lợi, thủy điện, gắn chế độ vận hành của công trình với các yêu cầu về phòng, chống lũ và điều tiết nước dưới hạ du các hồ để đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và BVMT của các địa phương trên các LVS lớn, quan trọng của nước ta.
Nhằm hài hòa lợi ích của các đối tượng sử dụng nước trên các LVS hiện nay và yêu cầu trong công tác quản lý, Bộ TN&MT đã ban hành Thông tư số 64/2017/TT-BTNMT quy định về xác định dòng chảy tối thiểu trên sông, suối và hạ lưu các hồ chứa, đập dâng. Để đảm bảo quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng TNN hiệu quả, đặc biệt là không gây suy thoái, cạn kiệt dòng sông thì trong quá trình xem xét, phê duyệt các quy hoạch chuyên ngành có khai thác, sử dụng TNN và các quy hoạch phát triển KT-XH của các bộ, ngành, địa phương thì phải rà soát, đảm bảo quy hoạch phải gắn với khả năng nguồn nước, bảo vệ TNN, duy trì dòng chảy tối thiểu trên sông, không vượt quá ngưỡng khai thác đối với các tầng chứa nước; các quy hoạch có khai thác, sử dụng TNN phải đảm bảo theo hướng sử dụng nước tiết kiệm, an toàn, có hiệu quả; sử dụng tổng hợp, đa mục tiêu, công bằng, hợp lý, hài hòa lợi ích, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các tổ chức, cá nhân. Điều này đã được quy định rất rõ ràng trong Luật TNN năm 2012.
NGUYỄN THU HƯƠNG
Cục Quản lý tài nguyên nước