
Diện tích vùng biển Việt Nam theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 khoảng trên 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, chiếm gần 30% diện tích Biển Đông (cả Biển Đông gần 3,5 triệu km2). Với vị trí thuận lợi, diện tích biển rộng lớn, tiềm năng phát triển điện gió, đặc biệt là điện gió ngoài khơi trên vùng biển Việt Nam là rất tiềm năng và nhiều triển vọng.
Theo báo cáo cập nhật các nguồn năng lượng tái tạo “phi thủy điện”: Tổng tiềm năng kỹ thuật điện gió (trên bờ) của nước ta khoảng 217 GW. Tổng tiềm năng kỹ thuật điện gió (ngoài khơi) khoảng 160 GW, trong đó Quảng Ninh (11 GW); Hà Tĩnh (4,4 GW); Ninh Thuận (25 GW); Bình Thuận (42 GW); Trà Vinh (20 GW). Với thống kê trên có thể thấy, vùng biển Nam Trung Bộ thuộc 2 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận là khu vực có tiềm năng điện gió ngoài khơi lớn nhất cả nước. Hiện nay, tại Ninh Thuận và Bình Thuận, có nhiều dự án điện gió ngoài khơi đang trong tiến trình xin cấp phép khảo sát của Thủ tướng Chính phủ, tiêu biểu như dự án điện gió Thăng Long (vùng biển Mũi Kê Gà - diện tích khoảng 2.000 km2) với tổng công suất là 3,4 GW; dự án điện gió La Gàn (vùng biển Mũi La Gàn - diện tích khoảng 1.000 km2).
Thông thường, các dự án điện gió chưa đưa vào Quy hoạch phát triển điện gió của địa phương hoặc Quy hoạch phát triển điện Quốc gia thì phải thực hiện Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi; nghiên cứu khả thi; đánh giá tác động môi trường sau đó mới thực hiện bước thiết kế chi tiết và xin giấy phép xây dựng. Các dự án điện gió ngoài khơi gồm các hợp phần xây lắp như sau: Cột tuabin phát điện (gồm khối chân đế; cột, tua-bin phát điện), đường cáp ngầm dẫn điện từ cột tuabin phát điện đến khu vực tiếp bờ, khu vực tiếp bờ kết nối với đường dây truyền tải điện. Để thực hiện việc xây dựng báo cáo tiền khả thi cho dự án điện gió ngoài khơi có chất lượng cao, hiệu quả về kinh tế, có tính bền vững và bảo vệ môi trường, việc đầu tiên các nhà đầu tư luôn cần đó là có được hiểu biết tốt nhất về điều kiện tự nhiên vùng biển sẽ thực hiện dự án. Các thông tin tiên quyết cần có để xây dựng dự án, xác định sơ bộ phương án kỹ thuật cho dự án điện gió là thông tin về đặc điểm địa hình, đặc điểm địa chất, địa chất công trình, đặc điểm khí tượng, đặc điểm hải văn, đặc điểm tai biến và các hoạt động nhân sinh của vùng biển dự kiến phát triển dự án điện gió.
Là một trong những đơn vị hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực điều tra TN,MT biển, Trung tâm Quy hoạch và Điều tra TN,MT biển khu vực phía Bắc (CPIM) đã và đang có những hướng đi vững chắc đầy tự tin, để khẳng định là đơn vị tin cậy cung cấp các dịch vụ tư vấn, khảo sát cho các nhà đầu tư các dự án điện gió. CPIM hiện đang là một trong những đơn vị sự nghiệp thuộc Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, CPIM đã có bề dày kinh nghiệm trong việc thực hiện công tác điều tra cơ bản trên các vùng biển Việt Nam từ các vùng biển ven bờ đến các vùng biển xa bờ suốt chặng đường 30 năm qua (từ năm 1991 đến nay), trong đó đối với vùng biển Ninh Thuận, Bình Thuân - vùng biển có điều kiện phát triển các trang trại điện gió tốt nhất từ 2001- 2006 CPIM thực hiện đề án “Điều tra địa chất, khoáng sản, địa chất môi trường và tai biến địa chất vùng biển Nam Trung Bộ tỷ lệ 1/100.000 và một số vùng trọng điểm tỷ lệ 1/50.000”; năm 2010 thực hiện dự án “Điều tra đặc điểm địa chất, địa động lực, địa chất khoáng sản, địa chất môi trường và dự báo tai biến địa chất vùng biển Việt Nam từ 30 - 100 m nước tỷ lệ 1/500.000”. Các dự án được thực hiện theo đúng quy định kỹ thuật về điều tra TN,MT biển với tổ hợp phương pháp điều tra, trang thiết bị khảo sát đồng bộ và hiện đại. Các dự án cơ bản có các nội dung chính như điều tra: Đánh giá đặc điểm địa hình, địa mạo đáy biển; đánh giá đặc điểm cấu trúc và thành phần vật chất các thành tạo địa chất, trong đó tập trung chính vào các trầm tích Đệ tứ; tiềm năng khoáng sản rắn, bao gồm: Sa khoáng Ti-Zr-TR, Au, Sn,... và vật liệu xây dựng (cát sạn bê tông, cát xây dựng, cát san lấp); các đặc điểm địa chất môi trường (chế độ hải văn, môi trường địa hóa nước biển, trầm tích biển, ô nhiễm môi trường,....) và dự báo tai biến địa chất (động đất, sóng thần, xói lở bờ biển, biến động luồng lạch,....)
Sản phẩm chính của các dự án/đề án là các bản đồ chuyên đề (theo tỷ lệ điều tra) và báo cáo thuyết minh: Độ sâu đáy biển, địa mạo, cấu trúc địa chất, địa chất Đệ tứ và trước Đệ tứ, vành trọng sa, dị thường địa hóa nguyên tố quặng, dị thường phổ gamma, phân vùng triển vọng khoáng sản, hình thái và chiều dày các tập địa chấn, tổng từ và dị thường từ #Ta, trầm tích tầng mặt, thủy - thạch động lực, địa động lực, hiện trạng địa chất môi trường, địa chất tai biến và dự báo tai biến. Hệ thống bản đồ, báo cáo được lưu giữ và quản lý trong cơ sở dữ liệu của CPIM (cơ sở dữ liệu được xây dựng theo đề án/dự án).
Trên cơ sở các dữ liệu này, CPIM có thể tổng hợp, xây dựng các báo cáo sơ bộ về đặc điểm tự nhiên của khu vực dự kiến xây dựng dự án điện do theo yêu cầu của các chủ đầu tư dự án. Các kết quả tư vấn sẽ là dữ liệu đầu vào quan trọng để chủ đầu tư nâng cao hiểu biết của mình hơn về khu vực phát triển trang trại điện gió, giúp việc xác định tính khả thi của dự án đầu tư.
Trong suốt 30 năm xây dựng và phát triển, CPIM hiện đang có hệ thống thiết bị khảo sát đồng bộ, hiện đại với chất lượng ngang tầm các nước. Các trang thiết bị CPIM đang có gồm:
Thiết bị khảo sát địa vật lý: Địa chấn nông độ phân giải cảo; thủy âm; sonar quét sườn, từ biển, trọng lự boong tàu. Các thiết bị đều do các hãng sản xuất hàng đầu trên thế giới cung cấp, đã và đang được khai thác, sử dụng hàng năm.
Thiết bị khảo sát lấy mẫu: Cuốc đại dương, ống phóng các loại, boxcore, bộ giàn khoan biển nông. Các thiết bị đảm bảo lấy mẫu địa chất, địa chất công trình trên toàn bộ vùng biển Việt Nam.
Thiết bị định vị dẫn đường; thiết bị đo sâu: đảm bảo độ chính xác của công tác khảo sát và cho phép xác định đặc điểm địa hình đáy biển.
Song song với việc nâng cấp hệ thống trang thiết bị khảo sát, CPIM cũng chú trọng phát triển nhân lực trong lĩnh vực điều tra TN,MT biển. Hiện CPIM đang có đội ngũ cán bộ kỹ thuật đủ độ chín, có nhiều năm kinh nghiệm khảo sát trên biển, làm chủ các trang thiết bị khảo sát, các công cụ tin học xử lý kết quả. Đồng thời, CPIM cũng phát triển hệ thống cộng tác viên không chỉ trong nước mà còn các chuyên gia trong lĩnh vực khảo sát phục vụ xây dựng các trang trại điện gió ở nước ngoài, đặc biệt là châu Âu - nơi các trang trại điện gió được phát triển từ 20- 30 năm qua.
Với thế mạnh vốn có và sự chuẩn bị kỹ càng cho một lĩnh vực mới, trong năm 2020, CPIM đã tham gia dự thầu gói thầu “Khảo sát Địa vật lý sơ bộ” phục vụ xây dựng dự án Điện gió ngoài khơi La Gàn (Bình Thuận) do Liên danh các nhà đầu tư Copenhagen Infrastructure Partners (CIP – Đan Mạch) ), Asia Petro và Novasia mời thầu. Tham dự gói thầu này ngoài các đơn vị trong nước còn có các công ty nước ngoài với năng lực khảo sát rất cao như công ty FURGO tham dự. Kết quả với sự hiểu biết về vùng biển Bình Thuận, kinh nghiệm khảo sát cùng hệ thống trang thiết bị hiện đại, đội ngũ kỹ thuật chuyên nghiệp cùng sự hợp tác với các chuyên gia của Cục Địa chất Đan Mạch và Greenland, CPIM đã được liên danh các nhà đầu tư lựa chọn là nhà thầu ưu tiên, sẽ triển khai công tác khảo sát địa vật lý ngay sau khi có giấy phép khảo sát của Thủ tướng Chín phủ.
Không chỉ dừng lại tại đó, với trách nhiệm của đơn vị thuộc Bộ TN&MT, CPIM hiểu rằng phát triển không đồng nghĩa với đánh đổi môi trường lấy kinh tế, cần lựa chọn phương pháp thực hiện tốt nhất cho môi trường biển. Do đó, cũng trong năm 2020, CPIM đã đề xuất Đại sứ quán Đan Mạch ở Việt Nam tài trợ một dự án đào tạo chuyên môn về giảm thiểu rủi ro của việc phát triển trang trại điện gió dựa trên các đánh giá về điều kiện đáy biển. Đề xuất đã được Đại sứ quán Đan Mạch chấp thuận. Tổng số có 11 cán bộ kỹ thuật của CPIM đã được các chuyên gia Đan Mạch đào tạo, hướng dẫn, truyền đạt các kinh nghiệm về đánh giá mức độ rủi ro do Dự án điện gió, sử dụng các phần mềm, công cụ đánh giá chuyên biệt để lựa chọn khu vực phù hợp nhất phát triển các trang trại điện gió. Đây sẽ là chìa khóa để tháo gỡ mẫu thuẫn giữa phát triển và bảo vệ môi trường của các trang trại điện gió ngoài khơi.
Trong tương lai gần, đồng hành cùng sự phát triển năng lượng sạch tại Việt Nam nói chung và điện gió ngoài khơi nói riêng, CPIM sẵn sàng hợp tác với các nhà đầu tư cũng như thực hiện các yêu cầu của các cấp quản lý của Việt Nam với mục đích các trang trại điện gió sẽ là ngành kinh tế xanh bền vững, là động lực để đưa Việt Nam trở thành một quốc gia mạnh về biển.
NGUYỄN VĂN NAM
Trung tâm Quy hoạch và Điều tra TN&MT biển khu vực phía Bắc