
PGS. TS. Phan Thanh Bình, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội khóa 14: Việc ứng phó những vấn đề của ĐBSCL là “chậm”. Các giải pháp hiện nay cũng chính là những giải pháp được đề xuất từ năm 2016 đến nay. Theo tôi, có ba tác động làm cho ĐBSCL khó khăn là do biến đổi khí hậu, do con người tại chỗ và do tác động của thượng nguồn. Trong đó, cần nhìn nhận rằng yếu tố con người tại chỗ là rất quan trọng. Cần xem lại chúng ta đã đối xử với môi trường của ĐBSCL như thế nào, để tạo ra những biến động của môi trường. Những tác động này bị tăng lên bởi biến đổi khí hậu và tác động của thượng nguồn.
Hiện vấn đề lún sụt và ngập mặn phải chăng có vấn đề từ việc khai thác cát, khai thác nước ngầm. Cần nhận thức rõ việc này. Phải chăng cần nhìn nhận lại nhiều thứ, giải pháp đưa ra rất nhiều nhưng cộng đồng phải thay đổi cách sống, cách sản xuất, sinh kế của đồng bào. Trong các nguyên nhân tác động, cần chú trọng nhiều hơn đến tác động của con người tại chỗ. Việc lún sụt có tác động đến xâm nhập mặn. Nước biển dâng vài mm một năm. Nhưng lún sụt là vài cm/năm, gấp 10 lần nước biển dâng. Mà lún sụt là do mình, bởi đây là vùng đất mới, nếu không giữ được nước, không giữ được trầm tích thì nó sẽ lún, và thực tế đang lún nhanh hơn nước biển dâng gấp 10 lần.
Về quan điểm, giải pháp cấp thiết cho ĐBSCL là đúng, nhưng từ lâu chúng ta đã nêu ra giải pháp “cấp thiết”, nhưng cũng phải gắn với lâu dài, coi là kế sách trăm năm. Đến nay, ĐBSCL vẫn là đất mới, đất bồi, nền móng yếu, thì kế sách phải như thế nào, phải tính bằng chục năm và lâu hơn nữa. Theo đó, chính sách, đã có nhưng phải toàn diện và khoa học. Giải pháp phải bản chất, căn cơ, lâu dài, hàng chục năm và xa hơn nữa, coi là kế sách trăm năm cho ĐBSCL, hướng đến phát triển bền vững.
PGS. TS. Nguyễn Hồng Quân, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển Kinh tế tuần hoàn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh: ĐBSCL có tiềm năng rất lớn để phát triển kinh tế tuần hoàn, như tận dụng phụ phế phẩm từ tôm, cá tra, lúa, cây ăn quả; tận dụng các nguồn đầu vào, chất thải.
Một số ví dụ cụ thể được nêu ra, như một công ty đã nghiên cứu sử dụng enzyme để thu hồi protein trong xác, vỏ tôm; ứng dụng công nghệ tuần hoàn tái sử dụng nước thải trong sản xuất chitin chất lượng cao bằng phương pháp hóa sinh; chiết xuất chitosan nền từ chitin và chitosan phân tử lượng thấp từ xác tôm mịn trong quá trình sản xuất SSE/Dịch đạm thủy phân; sử dụng công nghệ sinh học để sản xuất nguyên liệu bùn thải làm phân bón vi sinh từ bùn thải. Hay từ năm 2008, một công ty khác đã xây dựng thành công chương trình “Trang trại xanh”, có quy trình nuôi trồng - sản xuất cá tra khép kín, doanh nghiệp có thể kiểm soát từ giống - nuôi trồng - thu hoạch - chế biến - sản xuất - tiếp thị - bán hàng.
Với cây lúa, cây dừa, ĐBSCL cũng có tiềm năng lớn phát triển kinh tế tuần hoàn. Trong nông - lâm - thực phẩm, ĐBSCL có thể cung cấp nguồn nông sản sạch các khu vực đô thị như TP. Hồ Chí Minh. Mô hình kinh tế tuần hoàn gắn với phụ phẩm ngành (gắn với công nghiệp chế biến, nâng cao giá trị như Chitosan, Omega-3. Cùng với đó, là phát triển kinh tế số blockchain, truy suất nguồn gốc, chuỗi cung ứng (đảo chiều). Phục hồi rừng, bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học (rừng tràm, rừng ngập mặn), các nguồn gen, văn hóa bản địa. Bên cạnh đó, là việc trao đổi, mua bán tín chỉ carbon rừng, nông nghiệp cũng là tiềm năng lớn của vùng.
Nói chung, kinh tế tuần hoàn là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, là xu thế tất yếu của thế giới. ĐBSCL có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế tuần hoàn gắn với phát triển kinh tế nông nghiệp một cách bền vững. Theo tôi, cần thiết lồng ghép kinh tế tuần hoàn (tính liên vùng, liên ngành, liên lãnh vực cao) vào kế hoạch, quy hoạch vùng/ địa phương,… Tiếp tục phát triển các công nghệ chế biến, tạo các sản phẩm cấp cao hơn, như thực phẩm, mỹ phẩm. Đồng thời, hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp/ khởi nghiệp các sản phẩm mới gắn với mô hình kinh tế tuần hoàn. Nâng cao năng lực, phát huy vai trò các hợp tác xã kết nối nông dân để đủ thu hút sự quan tâm, đầu tư của các doanh nghiệp lớn; xây dựng chương trình hợp tác phát triển kinh tế tuần hoàn với các địa phương lân cận và đặc biệt TP. Hồ Chí Minh.
TS. Trần Minh Hải, Phó Hiệu trưởng Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn: Theo Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL”, mục tiêu đến năm 2025 diện tích chuyên canh cây lúa đạt 300.000 ha, đến năm 2030 đạt 1 triệu ha và sản lượng lúa tại các vùng chuyên canh lần lượt đạt 3,8 triệu tấn lúa và 13 triệu tấn,…
Quan điểm của đề án này là tiếp cận theo hướng chiến lược xanh, kinh tế tuần hoàn. Nhưng thực tế có nhiều người đang hiểu lầm, đề án ra đời nhằm để bán tín chỉ carbon, giảm phát thải, trong khi bản chất đề án nhằm nâng cao giá trị gia tăng trong ngành lúa gạo,…
Trong mục tiêu, phần khó nhất chính là liên kết giữa doanh nghiệp với các hợp tác xã phải đạt 100%; trong khi tiêu chí liên kết tiêu thụ giữa các đơn vị còn thấp. Có nhiều thông tin khác nhau về số liệu đăng ký tham gia dự án với hiện trạng triển khai của các tỉnh. Ví dụ, ban đầu tỉnh An Giang đăng ký là 200.000 ha, nhưng nay rút xuống còn 125.000 ha; hay như Cà Mau giảm từ 30.000 ha (đăng ký ban đầu) xuống còn 11.000 ha,…
Quan điểm triển khai là nơi nào phù hợp, đủ điều kiện hạ tầng, khả năng của địa phương thì nên làm trước. Nếu sản xuất theo phương thức truyền thống, thì một lượng nước khổng lồ đưa lên đồng ruộng, còn áp dụng theo phương thức mới ngập khô xen kẽ, có thể tiết kiệm được rất nhiều nước,…
Trước thực trạng này, đề án đặt ra yêu cầu gồm giảm đầu vào (giảm giống, phân, thuốc bảo vệ thực vật); áp dụng tưới ngập - khô xen kẽ; quản lý rơm rạ,… Song song đó, cần ưu tiên các hợp tác xã phát triển đúng bản chất, nhiều thành viên; lấy hợp tác xã thí điểm đầu tư tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm; triển khai quản lý mã vùng trồng; tăng cường xúc tiến thương mại, tiêu thụ nông sản,… Bên cạnh đó, hỗ trợ kỹ thuật và tài chính từ Ngân hàng Thế giới World Bank (WB) là rất quan trọng cho sự thành công của dự án đề xuất. Kinh nghiệm và kiến thức kỹ thuật của WB trong việc thiết kế và triển khai VnSAT và “Chương trình Lúa carbon thấp chất lượng cao 1 triệu ha”. Hỗ trợ tạo tín dụng carbon chất lượng cao cho lúa gạo kết hợp mua tín chỉ carbon trong đề án; giới thiệu những cải tiến mới cho chương trình, như hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, số hóa nông nghiệp và xây dựng thương hiệu các bon thấp,… và các khoản vay của WB có thể giúp Việt Nam duy trì vị thế là quốc gia tiên phong toàn cầu trong sản xuất và xuất khẩu gạo chất lượng cao với lượng khí thải thấp. WB có thể tạo điều kiện chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm quốc tế giữa Việt Nam và các nước khác trong các lĩnh vực liên quan.
Phương Chi (tổng hợp)
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 10 năm 2024