Giải pháp kỹ thuật phòng, chống sụt lún, sạt lở tại các tỉnh phía Nam

Thứ hai, 15/11/2021, 12:25 (GMT+7)
logo Trong những năm gần đây, do tác động của BĐKH và nước biển dâng đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển KT-XH vùng ĐBSCL. Điều đó đòi hỏi Bộ TN&MT cùng với các bộ, ngành phải có các đề tài nghiên cứu khoa học đề xuất các định hướng và giải pháp cho phòng chống xói mòn, sạt lở vùng ĐBSCL, tạo cơ sở cho sự phát triển ổn định và bền vững theo Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ.

Tình hình sụt lún sạt lở

Những năm qua, do diễn biến phức tạp của BĐKH cùng việc khai thác nguồn nước của các quốc gia thượng nguồn sông Mê Công cũng như sự phát triển nội tại của Việt Nam đã tác động mạnh mẽ đến sự ổn định và phát triển KT-XH của ĐBSCL, đặc biệt là vùng ven biển. Cụ thể: Xâm nhập mặn ngày càng sâu; diễn biến lũ về hằng năm không theo quy luật; thiếu nguồn nước ngọt cung cấp cho các hoạt động sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt và dịch vụ; lượng phù sa và dinh dưỡng giảm sụt mạnh; xói lở bờ biển diễn biến hết sức phức tạp; mực nước ngầm giảm sụt nghiêm trọng, đồng thời sụt lún đất diễn biến gia tăng trên diện rộng; ONMT cũng gia tăng, đe dọa đến hệ sinh thái và ĐDSH, đặc biệt đối với xói lở bờ sông, biển.

Giải pháp kỹ thuật phòng, chống sụt lún, sạt lở tại các tỉnh phía Nam

Sạt lở tại An Giang

Những diễn biến phức tạp, khó lường trong thời gian gần đây do tác động của cả thiên tai (tác động của thiên nhiên) và nhân tai (tác động do con người). Bộ TN&MT và các địa phương có liên quan đã rất nỗ lực trong phòng chống hiện tượng này (cả về giải pháp tổng thể và cụ thể). Tuy nhiên, một mặt là do hiện tượng cực đoan xảy ra ngày càng nhiều, mặt khác khi thực thi các giải pháp phòng chống lại cần rất nhiều kinh phí nên về tổng thể thì vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế.

Đối với vùng ĐBSCL, trước tình hình BĐKH, nước biển dâng đang có những thay đổi mạnh mẽ và phức tạp; sự thay đổi chế độ nguồn nước, thủy văn, bùn cát trên hệ thống sông Mê Công (xây dựng các đập thủy điện thượng nguồn, khai thác tài nguyên khoáng sản lòng sông…), tình trạng xói lở, bồi lắng bờ sông bờ biển có nguy cơ ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp. Vì vậy, công tác nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện, cập nhật thường xuyên những thay đổi cả về điều kiện tự nhiên lẫn những tác động từ các hoạt động phát triển KT-XH tiếp tục được đẩy mạnh, các giải pháp phòng tránh, thích ứng kịp thời với tình trạng sạt lở bờ đã được chú trọng triển khai thực hiện.

Trong điều kiện nguồn lực có hạn, theo lộ trình, để cung cấp luận cứ khoa học cho các giải pháp tổng thể và giải pháp công nghệ cao cho các vùng xói lở cụ thể, Bộ TN&MT đã phối hợp với các bộ, ngành địa phương và các đơn vị nghiên cứu triển khai các hoạt động nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ nhằm phục vụ có hiệu quả các giải pháp kỹ thuật thông qua các nhiệm vụ thuộc các Chương trình KH&CN trọng điểm cấp quốc gia và hợp tác quốc tế theo Nghị định thư với nước ngoài.

Những đóng góp nổi bật

Bộ TN&MT cùng với các bộ, ngành, các chương trình khoa học đã và đang triển khai thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến vấn đề phòng chống sụt lún, sạt lở tại các tỉnh phía Nam. Kết quả đạt được và đóng góp nổi bật trong thời gian qua là rất khả quan.

Về nghiên cứu các giải pháp KH-CN cho hệ thống công trình chỉnh trị sông trên các đoạn trọng điểm vùng đồng bằng Nam Bộ. Chúng ta đã đề xuất các phương án chỉnh trị tổng thể đoạn sông Tiền từ Tân Châu đến Hồng Ngự, trong đó hệ thống công trình có ứng dụng sơ đồ do đề tài đề xuất, điều chỉnh lớn tỷ lệ phân chia lưu lượng từ hiện trạng Hồng Ngự 37%, Long Khánh 58%, Cái Vừng 6%. Kết quả nghiên cứu trên mô hình toán đã chứng minh tính khả thi của phương án đề xuất. Đã hoàn thiện cơ sở KH&CN, đề xuất đưa kết cấu công trình đảo chiều hoàn lưu vào ứng dụng để chống sạt lở, bảo vệ bờ sông, trong trường hợp đoạn sông cong, dòng chảy mang nhiều bùn cát (ý tưởng này đã được cấp bằng sáng chế độc quyền). Sử dụng công nghệ xây dựng kết cấu đảo chiều hoàn lưu để khắc phục hư hỏng cho công trình chỉnh trị sông Quảng Huế, Quảng Nam, sau khi công trình bị hư hỏng; chỉnh trị đoạn phân lạch Trung Hà trên sông Đà…

Về nghiên cứu đánh giá tác động của các bậc thang thủy điện trên dòng chính hạ lưu sông Mê Công đến dòng chảy, môi trường, KT-XH vùng ĐBSCL và đề xuất giải pháp giảm thiểu bất lợi. Chúng ta đã tổng hợp, cập nhật các công trình đã, đang và sẽ xây dựng trên dòng chính sông Mê Công, đã đánh giá được các thay đổi có lợi và bất lợi do các hồ thủy điện trên dòng chính góp phần chủ động về quản lý nước và ổn định sản xuất ở vùng ĐBSCL. Việc xây dựng các công trình hồ chứa ở thượng lưu sông Mê Công làm giảm lượng bùn cát trong sông mang ra biển, kết quả cho thấy trường hợp có 12 thủy điện dòng chính và thủy điện dòng nhánh thì lượng phù sa về ĐBSCL có thể làm suy giảm đến 58% so với hiện nay. Kết quả này có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho việc định hướng các giải pháp quy hoạch chỉnh trị và công nghệ bảo vệ bờ.

Tính toán dự báo được những tác động sẽ xảy ra cho ĐBSCL, trong quá trình xây dựng và vận hành các công trình trên dòng chính sông Mê Công đồng thời đề xuất các giải pháp công trình, phi công trình nhằm giảm thiểu các tác động bất lợi. Kết quả nghiên cứu đã được chuyển giao cho Bộ NN&PTNT, Bộ TN&MT, Ủy ban sông Mê Công Việt Nam, các tỉnh ĐBSCL làm cơ sở cho công tác quản lý điều hành.

Về nghiên cứu giải pháp KH-CN để điều chỉnh và ổn định các đoạn sông có cù lao đang diễn ra biến động lớn về hình thái trên sông Tiền, sông Hậu. Chúng ta đã xác định được các yếu tố nước biển dâng và sụt lún không có tác động gây biến đổi phù sa nhiều, trong khi đó BĐKH có xu thế làm tăng lượng phù sa bùn cát phía thượng nguồn về ĐBSCL. Việc xây dựng đập thượng nguồn sẽ tác động cắt giảm lượng phù sa rất lớn, nếu xây dựng đủ 136 đập trên dòng chính và dòng nhánh, phù sa cắt giảm từ 60-80%. Đề xuất các giải pháp điều chỉnh và ổn định các đoạn sông diễn ra biến động lớn về hình thái trên sông Tiền, sông Hậu. Trên sông Tiền và sông Hậu có rất nhiều điểm sạt lở, diễn biến sạt lở rất mạnh, tuy nhiên chỉ được một số ý có điều kiện làm công trình kè bảo vệ bờ. Do đặc điểm tự nhiên là sông rộng nên cần có các giải pháp tổng thể và kết hợp giữa công trình và phi công trình sẽ hạn chế được mức đầu tư cho việc bảo vệ bờ sông. Giải pháp kè mỏ hàn cọc có khả năng áp dụng tốt ở trên sông Tiền và sông Hậu, vừa thân thiện môi trường vừa có giá thành rẻ hơn so với kè lát mái. Vì vậy, trong tương lai cần ứng dụng nhiều hơn loại kè này để bảo vệ các đoạn xói lở cục bộ, các đầu cù lao. Cụ thể, đối với trường hợp bảo vệ đoạn sông Hậu qua TP. Cần Thơ, nếu sử dụng phương án kè lát mái truyền thống giá thành sẽ là 1.679,4 tỷ đồng, trong khi đó nếu áp dụng cho phương án kè mỏ hàn cọc, giá thành để chỉnh trị đoạn sông này chỉ khoảng 575,2 tỷ đồng. Đây là lợi thế rất lớn về mặt kinh tế cũng như kè mỏ hàn cọc có giá trị sinh thái cao.

Về nghiên cứu tác động bất lợi của biến đổi hình thái lòng dẫn và hạ thấp mực nước hệ thống sông Cửu Long, đề xuất giải pháp giảm thiểu. Với mục tiêu: Đánh giá được thực trạng, nguyên nhân và tác động biến đổi hình thái lòng dẫn và hạ thấp mực nước hệ thống sông đến: Xâm nhập mặn, tiêu thoát lũ, cấp và trữ nước ở ĐBSCL; dự báo được mức độ biến đổi hình thái lòng dẫn và hạ thấp mực nước lòng dẫn trong tương lai khi có các đập thượng nguồn; đề xuất được giải pháp KH-CN để giảm thiểu thiệt hại, chủ động phòng, khắc phục và thích ứng với hiện tượng biến đổi hình thái lòng dẫn và hạ thấp mực nước hệ thống sông Cửu Long.

Trong thời gian tới, chúng ta tiếp tục nghiên cứu, tính toán xói phổ biến lòng dẫn hạ du sông Cửu Long với các kịch bản khác nhau về các hồ chứa thượng nguồn; tính toán định lượng sự biến đổi của quan hệ lưu lượng – mực nước tại các trạm thủy văn, quan hệ hình thái lòng dẫn; phân tích và dự báo những tác động bất lợi của việc hạ thấp lòng dẫn và mực nước đến: Tiêu thoát lũ, sạt lở bồi tụ gây hại, thay đổi tỷ lệ phân lưu trong hệ thống sông, xâm nhập mặn, trạm bơm và cửa lấy nước ở ĐBSCL, để từ đó đề xuất được các giải pháp KH-CN để giảm thiểu thiệt hại, chủ động phòng, khắc phục và thích ứng với hiện tượng hạ thấp lòng dẫn và mức nước hệ thống sông Cửu Long.

TS. LÊ CÔNG LƯƠNG

Liên hiệp các hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam