
Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, các địa phương đã chú ý nhiều hơn đến vai trò quan trọng của các dòng sông ở đô thị; nhiều địa phương đã có các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm và tìm giải pháp hồi phục chúng trở về trạng thái ban đầu. Thực tiễn cho thấy, các vấn đề liên quan đến sông đô thị không thể tách rời khỏi hệ thống nước. Bài viết này là kết quả nghiên cứu tổng hợp từ thực tiễn về phục hồi các dòng sông đô thị các nước trên thế giới và đề xuất cách tiếp cận cho các trường hợp tương tự ở Việt Nam.
Từ khóa: Đô thị, ô nhiễm sông, phục hồi sông.
Đô thị hóa và nước
Nước rất cần thiết cho con người, sản xuất và hệ sinh thái. Nhìn vào tiến trình lịch sử phát triển của loài người, các khu dân cư thường nằm dọc hai bên bờ các dòng sông. Nguồn nước sông ban đầu đóng vai trò cung cấp nước cho cư dân, sau đó là nhiều mục đích khác như sản xuất, giao thông, cảnh quan, du lịch,...
Nhiều nền văn minh sơ khai kéo dài từ Ai Cập đến Ấn Độ đều phát triển dọc theo các con sông. Nền văn minh lúa nước ở châu Á xuất hiện cách đây khoảng 13.000 năm. Các thành phố hiện đại tiếp tục duy trì sự phụ thuộc lẫn nhau giữa khu vực đô thị và sông ngòi, đồng thời tạo ra nhiều thách thức về nguồn nước. Ở nước ta, nhiều dòng sông, hồ ở các đô thị lớn như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Hải Phòng,… đã và đang bị ô nhiễm nghiêm trọng, cần được phục hồi.
Các vấn đề liên quan đến nguồn nước ở các đô thị là ô nhiễm do nước thải công nghiệp, sinh hoạt và nông nghiệp, dòng chảy đô thị, lũ lụt,... Bề mặt các đô thị dần dần được bao phủ bởi các công trình xây dựng, bê tông hoá,… làm giảm sự thấm, tăng lượng dòng chảy mặt; hệ sinh thái thủy sinh suy giảm là những tác động tiêu cực của quá trình đô thị hóa đến nguồn nước.
Các khái niệm và định nghĩa liên quan
Một số khái niệm được sử dụng phổ biến trong nhiều tài liệu về nội dung này là khôi phục và phục hồi. Nghĩa đen của khôi phục là làm sống lại những gì đã phai mờ theo thời gian hoặc bị hư hại để trở lại tình trạng ban đầu. Khôi phục thường được sử dụng cho các vật chất như cầu cống, kênh mương, đường giao thông, đáy và bờ sông,… Phục hồi có nghĩa là làm trở lại như cũ sau một thời gian bị sút kém. Khái niệm phục hồi thường được dùng cho các đối tượng như cơ thể sống, trạng thái vận động hoặc môi trường sinh thái. Đối với các dòng sông thì sử dụng khái niệm này để thể hiện các hoạt động nhằm phục hồi các tính năng đã mất.
Phục hồi sông có mục đích là đưa dòng sông trở lại tình trạng ban đầu về tất cả các khía cạnh như lưu lượng, chất lượng nước, hình thái, đời sống hữu cơ, hệ sinh thái, lòng sông,... Cũng có thể có các hoạt động chỉ khôi phục những điểm đã xuống cấp, các hoạt động phục hồi và khôi phục được đan xen với nhau (Shields et al, 2003). Công việc phục hồi có thể diễn ra ở quy mô dự án nhỏ và lớn. Các dự án cải tạo, phục hồi lớn nhất ở châu Âu được thực hiện trên sông Rhine, sông Danube. Bằng chứng chính về sự thành công của những dự án này là việc cá Hồi đã quay về với các dòng sông kể trên (Rutherfurd et al, 1998).
Lịch sử phát triển các phương pháp cải tạo, phục hồi sông đô thị
Cách tiếp cận và thực hiện phục hồi các sông đô thị trên thế giới đã có bề dày kinh nghiệm hơn 100 năm qua, được chia thành 4 giai đoạn như sau: 1) Những năm đầu Thế kỷ 20 đến trước năm 1970, trong đó, quản lý sông đô thị chủ yếu tập trung vào kiểm soát lũ mà chưa quan tâm đến các vấn đề về môi trường, vì thế mà các dòng sông mất đi các chức năng môi trường và cảnh quan; 2) Từ 1970 đến những năm 1980, thường áp dụng phương pháp đóng kín một số đoạn sông ô nhiễm, di chuyển nước ô nhiễm ra xa đô thị và làm giảm các ảnh hưởng môi trường đô thị do ô nhiễm sông. Phương pháp này đã giúp tạo được môi trường tốt hơn trong đô thị, nhưng vấn đề ô nhiễm sông thì chưa được giải quyết và cảnh quan dọc sông bị thay đổi. 3) Những năm 1980 đến những năm 1990 xuất hiện mục tiêu cải thiện môi trường sông đô thị. Để đạt mục tiêu này, các sông bị đóng kín trước đây được khôi phục lại, các lối đi bộ, đường dành cho xe đạp, công viên cây xanh được tạo ra dọc theo sông, nhiều nơi đã phục hồi được không gian lòng sông, không gian hai bên bờ và môi trường nước do áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp, trong đó có việc xây dựng các hệ thống thu gom và xử lý nước thải trước khi chảy vào sông. 4) Giai đoạn từ năm 1990 đến nay, kỹ thuật cải thiện, phục hồi dòng sông theo hướng tạo được môi trường sinh thái sông như trước đây đã được sử dụng (Kim, 2006).
Quan điểm tiếp cận để phục hồi các dòng sông có sự thay đổi rõ rệt theo thời gian. Trước đây, thường coi nước thải là thứ bỏ đi, thì nay ở một số quốc gia đã coi nước thải là tài nguyên; coi nước mưa là nguyên nhân gây ngập lụt ở đô thị thì nay coi đây là tài nguyên quí giá và cần được lưu trữ để sử dụng.
Đề xuất áp dụng ở Việt Nam
Tác động của sự phát triển kinh tế và đô thị hóa đến nguồn nước nói chung và các dòng sông là rất lớn. Chu trình nước đô thị phổ biến ở Việt Nam hiện nay là nước mưa di chuyển qua các bề mặt cứng, nơi nước không thể thấm vào lòng đất, chảy vào hệ thống cống thoát và sông đô thị; nước dưới đất được khai thác sử dụng cho sinh hoạt và sản xuất; nước thải chảy chung với nước mưa, một phần đến các nơi xử lý còn phần lớn chảy ra các dòng sông.
Kinh nghiệm thế giới về phục hồi sông đô thị cho thấy, trước hết là cần có các hoạt động làm thay đổi thói quen xấu, tăng hiểu biết của các chủ thể quản lý cũng như người dân về sự cần thiết phải thay đổi chu trình nước đô thị nêu trên. Cần tạo cho chu trình nước gần với tự nhiên là: Nước mưa chủ yếu thấm xuống bề mặt đất thông qua các cầu trúc hở, hệ thống bổ sung nhân tạo nước dưới đất; phần còn lại chảy vào các hệ thống thu nước, được xử lý sơ bộ trước khi đổ vào hệ thống sông. Đa dạng nguồn nước cấp và sử dụng tuần hoàn nước; giảm thiểu tối đa nước thải. Nước thải được chảy về các khu xử lý tập trung đạt quy chuẩn rồi mới ra hệ thống thoát nước. Các bước tiến hành để phục hồi sông đô thị được thể hiện trong hình vẽ và cụ thể như sau:
Bước 1. Xác định yếu tố suy thoái sông đô thị. 5 yếu tố chính để đánh giá hiện trạng là: a) Thủy văn gồm tốc độ dòng chảy, lưu lượng, mực nước sông và hiện trạng khai thác nước sông; b) Chất lượng nước, thành phần trầm tích sông; c) Tính toàn vẹn hệ sinh thái; điều kiện sống của sinh vật dưới nước; d) Kiểm soát sói mòn; hiện trạng cảnh quan dọc sông; kiểm soát lũ; tạo hành lang bảo vệ sông; đ) Ổn định bờ sông, kết nối với các mảng sinh thái tự nhiên ven bờ, hiện trạng môi trường sống và mật độ dân cư ven sông.
Dự báo xu hướng biến đổi sinh thái sông giúp xác định các vấn đề sinh thái tiềm ẩn. Cơ sở dự báo là tập hợp các thông tin có thể tác động đến lưu vực sông đô thị. Trong trường hợp chất lượng nước sông xuống cấp nghiêm trọng thì việc đánh giá được dựa trên kết quả dự báo của từng yếu tố như chất lượng và số lượng nước kết hợp với ý kiến của chuyên gia và tham vấn cộng đồng.
Bước 2. Thiết lập mục tiêu phục hồi. Phục hồi sông đô thị thường mang tính đa mục tiêu, hướng tới việc duy trì và cải thiện tất cả các chức năng và sinh thái sông bao gồm kiểm soát lũ lụt, tạo cảnh quan, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo tồn đất và nước, ổn định dòng chảy và cải thiện chất lượng nước,...
Bước 3. Hình thành kịch bản phục hồi. Kịch bản phục hồi sông đô thị cần có tính toàn vẹn để hiện thực hóa toàn bộ quá trình khôi phục chức năng và quá trình động lực của sông có thể ở tầm quy mô: Vĩ mô, trung bình và vi mô. Ở quy mô vĩ mô, cải thiện hệ thống an ninh phục hồi dòng sông để giảm thiểu các tác động nhiễu loạn đến sông. Biện pháp cơ bản là điều chỉnh phát triển nền kinh tế đô thị theo hướng tái chế, công nghiệp sinh thái và sản xuất sạch. Ở quy mô trung bình, kiểm soát ô nhiễm sông trong khu vực đô thị và lưu vực là cải thiện chất lượng nước, hành lang sông và xây dựng môi trường sống cho hệ thủy sinh,... Ở quy mô vi mô, tập trung vào thiết kế sinh thái và thực hiện các dự án cụ thể về xử lý nước thải, tuần hoàn nước đô thị, tạo cảnh quan xanh,... các kịch bản cần có một số phương án khả thi làm cơ sở cho việc tối ưu hóa.
Các bước thực hiện phục hồi sông đô thị
Bước 4. Tổ chức thực hiện. Kịch bản được xây dựng mang tính tích hợp có trật tự và thời gian thực hiện. Việc tổ chức thực hiện cần phải xuất phát từ xây dựng các quy định của chính quyền có tính pháp lý để áp dụng cho đô thị. Các giải pháp, công nghệ áp dụng cần có tính tuần tự, có lộ trình và có bộ chỉ số để đánh giá kết quả.
Thay lời kết. Nhiều nguồn nước nói chung và dòng sông nói riêng ở các đô thị nước ta đã và đang bị ô nhiễm trầm trọng do sự phát triển kinh tế và quá trình đô thị hoá mà việc khôi phục chúng có tính cấp thiết cao. Trên cơ sở kinh nghiệm phong phú từ các nước trên thế giới, chúng ta có thể đi tắt, đón đầu để thực hiện thành công các dự án phục hồi các sông ô nhiễm một cách hữu hiệu.
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt:
1. ADB, 2019, những giải pháp thiên nhiên cho các đô thị tại Việt Nam, Available online: https://www.adb.org/ terms-use#openaccess.
Tiếng Anh:
2. United Nations. The World Population Prospects: The 2017 Revision. https://esa.un.org/ unpd/wpp/ (accessed on 12 December 2017). 2. UN. 2014. Available online: http://www.un. org/en/ development/desa/news/population/ worldurbanization-prospects-2014. html (accessed on 12 December 2017);
3. Lyle, J.T. Regenerative Design for Sustainable Development; Wiley: New York, NY, USA, 1994. 4. Hens, L. The challenge of the sustainable city. Environ. Dev. Sustain. 2010, 12, 875–876. [CrossRef] Land 2018, 7, 141 15 of 16.
NGUYỄN CHÍ NGHĨA1, ĐỖ VĂN BÌNH2,
ĐỖ TRƯỜNG SINH3, PHẠM VĂN QUẢNG1 VÀ ĐINH THỊ THƯƠNG4
1Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Bắc
2Trường đại học Mỏ - Địa chất
3 Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước Quốc gia
4Công ty Cổ phần Tư vấn xây dựng điện
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 2 năm 2024