
Ảnh minh họa
Tình hình khai thác sử dụng nước ở Việt Nam
Tại Việt Nam, nước được sử dụng trong mọi hoạt động phát triển kinh tế, xã hội và phục vụ cuộc sống nhân dân. Với mật độ sông ngòi dày đặc, trong đó, khoảng hơn 2.360 con sông có chiều dài trên 10 km, 16 hệ thống sông có diện tích lưu vực hơn 2.500 km2; tổng lượng nước mặt đến và sinh ra trong lãnh thổ Việt Nam là khoảng 840 tỷ m3/năm, trong đó, 63% (khoảng 520 tỷ m3 từ nước ngoài chảy qua một số sông vào Việt Nam). Do đặc điểm khí hậu thủy văn, lượng nước mặt trên các hệ thống sông phân bố không đồng đều, cả về không gian và thời gian.
Hiện nay, nông nghiệp là ngành tiêu thụ nước lớn nhất (khoảng 70%). Nước đóng vai trò chủ đạo trong sản xuất lúa gạo, cà phê, cây ăn trái và nuôi trồng thủy sản,... đặc biệt, ở Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng. Trong công nghiệp, nước đóng vai trò quan trọng trong phát triển thủy điện, đóng góp khoảng 40% tổng sản lượng điện toàn quốc. Nước cũng quan trọng trong phục vụ sinh hoạt, đời sống hàng ngày của người dân.
Hiện nay, trên các dòng chính toàn quốc có khoảng 77 công trình hồ chứa lợi dụng tổng họp nguồn nước, trong đó, 8 công trình trên các LVS miền Bắc, 8 công trình ở Bắc Trung Bộ, 15 công trình ở Nam Trung Bộ, 26 công trình ở Tây Nguyên và 20 công trình ở vùng Đông Nam Bộ. Phát triển mạnh mẽ nhất là trên LVS Hồng, Mã, Cả, Vu Gia - Thu Bồn, Ba, Kôn, Đồng Nai, Sê San, Srepok. Ngoài vận hành phát điện hòa lưới điện quốc gia, nhiều công trình thủy điện kết hợp cấp nước cho các nhu cầu sử dụng và phòng, chống lũ cho hạ du.
Dưới áp lực gia tăng dân số, nhu cầu sử dụng nước phục vụ tăng trưởng của các ngành kinh tế, các địa phương khác nhau cộng với ảnh hưởng của các hiện tượng thời tiết cực đoan xảy ra thường xuyên hơn; nhiều khác biệt, mâu thuẫn trong tranh chấp sử dụng nước đã và đang ngày một gia tăng giữa các ngành, các địa phương, các vùng trong một LVS và thậm chí giữa các quốc gia trong LVS liên quốc gia. Các mâu thuẫn tranh chấp đó thường liên quan đến lợi ích kinh tế, môi trường giữa các ngành, giữa thượng lưu và hạ lưu, giữa các địa phương thể hiện ở số và chất lượng nước của nguồn nước được chia sẻ.
Quy định pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng nước ở Việt Nam
Luật TNN 2012 bao gồm 10 chương và 79 điều. Để thực hiện Luật TNN 2012, một loạt các văn bản “dưới luật” (nghị định, thông tư) đã được ban hành. Các văn bản này có thể nói đã giúp thực thi pháp luật về TNN, tăng cường công tác quản lý nhà nước và hỗ trợ cho việc giải quyết tranh chấp mâu thuẫn và một số văn bản đáng chú ý gồm: Nghị định số 201/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của luật tài nguyên nuớc; Nghị định số 80/2014/NĐ-CP về thoát nước và xử lý nước thải; Nghị định số 43/2015/NĐ-CP quy định lập, quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước; Nghị đinh số 167/2018/NĐ-CP quy định về việc hạn chế khai thác nước dưới đất. Các quyết định của Thủ tướng Chính phủ về quy trình vận hành liên hồ chứa trên một số LVS Hồng, Mã, Cả, Hương, Srepok, Vu Gia-Thu Bồn,... Thông tư số 64/2017/TT-BTNMT quy định về xác định dòng chảy tối thiểu trên sông, suối và hạ lưu các hồ chứa, đập dâng; Thông tư số 17/2021/TT-BTNMT quy định về giám sát khai thác, sử dụng TNN.
Về cách giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn một vấn đề, các bên có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp một cách hoà bình và có thể lựa chọn các biện pháp thích hợp bao gồm thương lượng trực tiếp, sử dụng trung gian hoà giải, sử dụng cơ chế trọng tài hoặc đưa ra xử tại toà án. Riêng đối với các tranh chấp về TNN, tại các Điều 69 (trong Chương Hợp tác quốc tế về TNN) và Điều 76 (trong chương giải quyết tranh chấp về TNN) Luật TNN năm 2012 có nêu các quy định về các nguyên tắc và cách giải quyết tranh chấp, bất đồng về nguồn nước liên quốc gia (Điều 69), và về TNN nói chung (hiểu là trong phạm vi Việt Nam) (Điều 76); trong đó, đối với các nguồn nước trong Việt Nam, hòa giải luôn được khuyến khích sử dụng trước tiên (chưa thấy quy định vê các biện pháp khác như cơ chế trọng tài, tòa án).
Đối với nguồn nước liên quốc gia, quy định giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn khá đầy đủ (theo quy định của luật pháp/điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc là thành viên và theo quy định của luật pháp và điều ước quốc tế có liên quan). Ngoài các quy định còn chung chung như trên, trong nghị định hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TNN (Nghị định số 201/2013/NĐ-CP), không có quy định chi tiết về cách thức giải quyết tranh chấp; mà chỉ có giao trách nhiệm giải quyết “vấn đề phát sinh” liên quan đến trách nhiệm điều phối, giám sát trong LVS liên tỉnh cho Bộ TN&MT (Điều 46), trong LVS nội tỉnh cho UBND cấp tỉnh (Điều 47), và cho các bộ, ngành liên quan trong LVS (Điều 48).
Đề xuất nội dung về giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn trong dự thảo Luật Tài nguyên nước sửa đổi
Đưa nguyên tắc phòng ngừa xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn lên trên. Nhấn mạnh việc tuân thủ các quy định Luật này (nhất là quy định về dòng chảy tối thiểu, quy trình vận hành hồ chứa/liên hồ chứa) và các pháp luật có liên quan đến việc quy hoạch, khai thác, sử dụng, phát triển TNN và các tài nguyên liên quan đến nước, xả thải vào nguồn nước,... Sau đó mới đến quy định giải quyết và hòa giải là biện pháp đầu tiên được khuyến khích.
Bên cạnh đó, tại khoản 2 Điều 78 của dự thảo quy định: “Tranh chấp, bất đồng về nguồn nước liên quốc gia xảy ra trong LVS có tổ chức LVS quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam tham gia được giải quyết trong khuôn khổ tổ chức LVS quốc tế theo quy định của điêu ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên. Trên thực tế, LVS Mê Công (sông liên quốc gia) có 6 quốc gia nhưng hiện chỉ mới có 4 quốc gia hạ lưu tham gia ủy hội sông Mê Công. Trung Quốc và Myanmar là 2 quốc gia thượng lưu nhưng chưa tham gia. Vì vậy, nên bỏ đoạn “...theo quy định của điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên “và khoản này rút gọn lại là “Tranh chấp, bất đồng về nguồn nước liên quốc gia xảy ra trong LVS có tổ chức LVS quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam tham gia được giải quyết trong khuôn khổ tổ chức LVS quốc tế đó”.
Một phương án khác là đưa quy định của Điều 78 như dự thảo hiện nay vào Chương IX (thanh tra chuyên ngành TNN, giải quyết tranh chấp về TNN), thành một khoản trong quy định về trách nhiệm của Bộ TN&MT tại Điều 84 (hoặc một điều riêng về nguồn nước liên quốc gia). Ví dụ: Là đại diện của Việt Nam trong đề xuất, xem xét, giải quyết tranh chấp, bất đồng,... LVS liên quốc gia (như quy định tại Điều 2, khoản 7, mục 1), m), n), o) của Nghị định số 68/2022/ ND-CP về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ TN&MT).
Nếu không gộp nội dung giải quyết tranh chấp bất đồng LVS liên quốc gia thì đề xuất bố cục lại Điều 84 (Giải quyết tranh chấp về TNN) với một số thay đổi như sau: Khoản 1: Nhất trí như quy định của khoản 1 tại dự thảo; Khoản 2: Giải quyết tranh chấp về TNN được thực hiện như sau: Nhà nước khuyến khích các bên tổ chức, cá nhân giải quyết tranh chấp về TNN thông qua tự hòa giải hoặc hòa giải tại cơ sở theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở; trong trường hợp tự hòa giải không thành, các bên có thể tiếp tục giải quyết qua cơ chế trọng tài hoặc tòa án; khoản 3: là tiết c) hiện nay. Theo đó, sửa các số 3,4,5,6 như Dự thảo hiện nay thành 4,5,6,7.
Tóm lại, dự thảo Luật TNN năm 2023 đã kế thừa các quy định nêu tại văn bản pháp luật trước đây về giải quyết tranh chấp mâu thuẫn về TNN. Có một số nội dung như nhận xét và đề xuất trên đây cần được cân nhắc, xem xét để nếu có thể, có sự điều chỉnh thích hợp trong dự thảo. Điểm cuối cùng là, song song với việc hoàn chỉnh dự thảo Luật thì cũng cần chuẩn bị các văn bản dưới luật (Nghị định, thông tư) với các giải thích cụ thể, chi tiết về nội dung này để việc thực thi Luật được thuận lợi và Luật thực sự đi vào đời sống.
NGUYỄN NHÂN QUẢNG
Chuyên gia độc lập
Trích Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 13 (Kỳ 1 tháng 7) năm 2023