
Ảnh minh họa
Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Nguyễn Thị Thu Linh đã có cuộc trao đổi với phóng viên Tạp chí Tài nguyên và Môi trường về vấn đề này.
Phóng viên: Trong bối cảnh xâm nhập mặn ngày càng gay gắt, nguồn nước ngày càng ô nhiễm, việc bảo đảm nguồn nước và việc cung cấp nước, nhất là nguồn nước sạch phục vụ sản xuất và đời sống cho người dân đang bị ảnh hưởng nặng nề bởi BĐKH. Cục Quản lý TNN đã có những biện pháp gì để kiểm soát chặt chẽ quy trình sử dụng nước đa mục tiêu, thưa bà?
Phó Cục trưởng Nguyễn Thị Thu Linh: Thời gian qua, với sự phát triển mạnh mẽ của KT-XH, sự gia tăng ngày càng lớn của các hoạt động sử dụng nước (SDN) cộng với tác động nặng nề của BĐKH,… đã và đang đặt ra nhiều thách thức trong việc quản lý, bảo vệ nguồn nước, trong đó có thể kể đến thách thức về khai thác, sử dụng nguồn nước chưa hợp lý, lãng phí. Nhu cầu SDN gia tăng trong khi tình trạng SDN lãng phí, kém hiệu quả còn khá phổ biến; chưa bảo đảm việc sử dụng tổng hợp, đa mục tiêu, hiệu quả TNN, nhất là huy động nguồn nước của hệ thống các hồ chứa trên các LVS (chủ yếu là các hồ chứa thủy điện và thủy lợi do Bộ Công Thương và Bộ NN&PTNT quản lý) tham gia điều tiết dòng chảy cho hạ du.
Trước thực trạng đó, Bộ TN&MT được Chính phủ giao nhiệm vụ thực hiện xây dựng quy trình vận hành liên hồ chứa trên các LVS và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Bộ đã tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành phê duyệt, phê duyệt điều chỉnh 11 quy trình vận hành liên hồ chứa cho cả mùa lũ và mùa cạn trên các LVS: Hồng, Mã, Cả, Hương, Vu Gia - Thu Bồn, Sê San, Srêpôk, Ba, Trà Khúc, Kôn và sông Đồng Nai với nhiệm vụ bảo đảm cắt giảm lũ và cấp nước cho hạ du được ưu tiên hàng đầu. Việc ban hành kịp thời các Quy trình vận hành liên hồ chứa trên 11 LVS có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm bảo đảm sử dụng tổng hợp nguồn nước và phòng chống tác hại do nước gây ra.
Phóng viên: Xin bà cho biết hiệu quả thực tiễn của các quy trình vận hành liên hồ chứa trên 11 LVS trong thời gian qua?
Phó Cục trưởng Nguyễn Thị Thu Linh: Trong những năm qua, việc vận hành các hồ chứa theo các quy trình đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành đã mang lại những hiệu quả rõ rệt. Các hồ chứa đã tham gia vận hành, điều tiết, bổ sung một lượng nước tương đối lớn cho hạ du, góp phần quan trọng trong việc bảo đảm nguồn nước, cấp nước cho các ngành SDN, giảm thiểu khá lớn hiệt hại do hạn hán gây ra. Về cơ bản các địa phương ở hạ lưu các hồ chứa thủy điện, thủy lợi lớn nằm trong các quy trình vận hành liên hồ chứa không xảy ra tình trạng thiếu nước. Việc thiếu nước chủ yếu xảy ra ở phía thượng lưu các sông, suối không có các hồ chứa lớn điều tiết, những hồ chứa thủy lợi nhỏ hoặc ở khu vực không có các công trình điều tiết, cấp nước.
Kể từ khi 11 Quy trình vận hành liên hồ chứa được ban hành, ngoài việc thanh tra, kiểm tra định kỳ, đột xuất việc thực hiện quy trình vận hành liên hồ chứa, thực hiện chỉ đạo của lãnh đạo Bộ TN&MT, Cục Quản lý TNN đã chỉ đạo đơn vị có chức năng theo dõi, giám sát thường xuyên, liên tục việc vận hành của các hồ chứa để kịp thời đôn đốc, hướng dẫn các chủ hồ thực hiện nghiêm túc việc vận hành theo quy trình thông qua hình thức văn bản, điện thoại, email,... Đồng thời, Cục đã tổ chức các đoàn công tác làm việc với các địa phương để thống nhất phương án chỉ đạo, điều tiết nước các hồ chứa, đặc biệt là trong những thời gian xảy ra hạn hán thiếu nước để đảm bảo việc vận hành các hồ chứa cung cấp đủ nước cho hạ du các LVS.
Bên cạnh đó, Bộ đã ban hành Thông tư số 64/2017/TT-BTNMT quy định về xác định dòng chảy tối thiểu (DCTT) trên sông, suối và hạ lưu các hồ chứa, đập dâng. Thông tư này là cơ sở phục vụ công tác xác định dòng chảy tối thiểu trên các sông, suối và hạ du các hồ chứa, góp phần quan trọng hơn đó là giảm thiểu những tác động do việc khai thác, SDN của các hồ chứa, bảo đảm hạn chế tối đa việc tạo ra những đoạn sông khô cạn và giảm thiểu tác động đến hệ sinh thái thủy sinh và các hoạt động khai thác, sử dụng của người dân phía hạ lưu phụ thuộc vào nguồn nước trên các sông, suối có xây dựng hồ chứa. Cục thẩm định và trình Bộ cấp trên 500 giấy phép khai thác cho các hồ chứa thủy điện, thủy lợi. Trong các giấy phép luôn yêu cầu các hồ chứa phải đảm bảo DCTT hạ du, góp phần không nhỏ trong việc giảm thiểu tác động của việc vận hành các hồ chứa đến hạ du.
Ngoài ra, Bộ đã ban hành Thông tư số 47/2017/TT-BTNMT quy định về giám sát khai thác, sử dụng TNN quy định các chủ hồ phải lắp đặt thiết bị, camera giám sát, truyền thông tin, dữ liệu hồ chứa như mực nước hồ, lưu lượng xả nước, lưu lượng xả dòng chảy tối thiểu. Hiện nay, Bộ đang xây dựng hệ thống giám sát việc khai thác, SDN của các công trình giám sát khai thác, sử dụng TNN, đây là công cụ quan trọng phục vụ công tác quản lý, hỗ trợ công tác ra quyết định, chỉ đạo điều hành trong lĩnh vực TNN.
Phóng viên: Để đảm bảo an ninh nguồn nước nhằm phát triển KT-XH bền vững, Cục Quản lý TNN đã định hướng những nhiệm vụ trọng tâm nào trong thời gian tới, thưa bà?
Phó Cục trưởng Nguyễn Thị Thu Linh: Trong thời gian tới, bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về TNN, nhiệm vụ trọng tâm, chủ yếu của công tác quản lý TNN là tập trung triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách quản lý đã được thể chế hóa trong Luật TNN năm 2012 và các văn bản đã được ban hành trong thời gian qua, cụ thể:
Tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật, chính sách quản lý TNN; đồng thời trong thời gian tới, tiến hành rà soát, sửa đổi Luật TNN, trong đó cần có các quy định khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển TNN và các dịch vụ về nước (điều tra cơ bản, quan trắc, giám sát TNN, công trình điều tiết nước, cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ về nước) theo phương thức xã hội hóa. Đặc biệt, cần tăng cường đầu tư cho lĩnh vực TNN.
Tập trung xây dựng và phê duyệt quy hoạch TNN quốc gia, quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản TNN, quy hoạch TNN LVS Hồng, Cửu Long và các LVS lớn làm cơ sở cho các quy hoạch có khai thác, SDN nhằm cân bằng các nguồn nước, điều hòa, phân bổ TNN một cách hợp lý theo không gian, thời gian đặc biệt là quy định các phương án phân bổ nguồn nước trong trường hợp hạn hán, thiếu nước. Đồng thời, tổng kiểm kê TNN và hiện trạng khai thác, SDN và xả nước thải vào nguồn nước trên phạm vi cả nước.
Hoàn chỉnh việc xây dựng hệ thống giám sát TNN; đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra; tăng cường giám sát việc khai thác SDN, xả nước thải vào nguồn nước thông qua hình thức giám sát tự động, trực tuyến.
Nâng cao trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương và người dân trong việc giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng và bảo vệ TNN, bảo vệ chất lượng nước các sông, suối, hồ, ao,… nhất là các nguồn nước cấp cho sinh hoạt. Nghiên cứu đề xuất các phương án tăng cường khả năng trữ lũ, giữ nước ngọt với quy mô phù hợp với vùng nhằm tăng cường trữ nước, điều tiết nguồn nước để bảo đảm nâng cao hiệu quả khai thác nguồn nước, SDN tiết kiệm, hiệu quả. Đặc biệt, hoàn thiện các chính sách nhằm thu hút đầu tư các công trình trữ nước, điều tiết nước có hiệu quả trong bối cảnh BĐKH gây ra các vấn đề lũ lụt, hạn hán thiếu nước nghiêm trọng như hiện nay.
Thành lập và đưa vào hoạt động các Ủy ban LVS để thực hiện có hiệu quả và nâng cao vai trò trong việc điều phối, giám sát hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ TNN. Nghiên cứu, rà soát các khuyến nghị của Ngân hàng thế giới trong báo cáo Nghiên cứu về quản trị TNN trong tình hình mới, đặc biệt khuyến nghị về thống nhất chức năng, nhiệm vụ quản lý TNN giữa các bộ, ngành; tăng cường hiệu quả SDN, giải quyết các vấn đề ô nhiễm TNN trên các LVS; đảm bảo SDN bền vững, đáp ứng các nhu cầu SDN cho phát triển KT-XH, thích ứng với BĐKH.
Tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế nhằm bảo đảm số lượng và chất lượng nguồn nước cho các mục đích sử dụng; tham gia tích cực và thực thi các điều ước quốc tế có liên quan đến TNN trên cơ sở hợp tác, phối hợp, đấu tranh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng, bảo tồn TNN, trên nguyên tắc bảo đảm công bằng, hợp lý và bảo đảm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia.
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn Phó cục trưởng!
Thanh Tâm (thực hiện)