
Phát thải khí nhà kính
Từ năm 2018, lượng khí thải đã tiếp tục tăng trong mọi lĩnh vực. Phát thải từ quá trình đốt cháy nhiên liệu hóa thạch và các quá trình công nghiệp đã giảm tạm thời trong thời gian đại dịch, nhưng đã phục hồi lên mức cao kỷ lục vào cuối năm 2020.
Hiện nay, Biến đổi khí hậu do con người gây ra là hậu quả của hơn một thế kỷ phát thải khí nhà kính do sử dụng năng lượng không bền vững, sử dụng đất và thay đổi mục đích sử dụng đất cũng như các mô hình tiêu dùng và sản xuất. Giai đoạn 2010-2019 chứng kiến mức tăng phát thải trung bình cao nhất trong lịch sử loài người. Trung bình, chúng ta thải ra 56Gt CO2 tương đương mỗi năm trong giai đoạn đó. Lượng phát thải khí nhà kính do con người gây ra đạt 59Gt CO2 tương đương vào năm 2019, mức cao nhất kể từ năm 1990. Lượng phát thải đã tăng trên tất cả các lĩnh vực nhưng chủ yếu diễn ra trong lĩnh vực nhiên liệu hóa thạch và công nghiệp. Khoảng 34% lượng phát thải của con người đến từ lĩnh vực cung cấp năng lượng, 24% từ công nghiệp, 22% từ nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất, 15% từ giao thông và 6% từ các tòa nhà. Cường độ các-bon của nền kinh tế toàn cầu đã giảm nhẹ, nhưng xu hướng đó bị xoá nhoà bởi lượng khí thải gia tăng từ các ngành công nghiệp, cung cấp năng lượng, giao thông, nông nghiệp và các tòa nhà. Nếu không có hành động giảm nhẹ khẩn cấp, hiệu quả và công bằng, biến đổi khí hậu sẽ ngày càng đe dọa đến sức khỏe và sinh kế của người dân trên toàn cầu, sức khỏe hệ sinh thái và đa dạng sinh học.
Giảm phát thải khí nhà kính
Cắt giảm phát thải khí nhà kính sâu
Khi có nhiều cam kết đưa phát thải ròng về 0 của các chính phủ và công ty, tuy nhiên cần nhấn mạnh hơn vào hành động nhanh chóng, trong ngắn hạn để phù hợp với lộ trình giới hạn mức tăng nhiệt ở 1,5° C. Quy mô của nhiệm vụ là rất lớn và có thể thay đổi, nhưng có thể thực hiện được với các lựa chọn công nghệ đã có sẵn.
Phát thải KNK toàn cầu cần đạt đỉnh điểm, muộn nhất là trước năm 2025, để đạt được mức tăng nhiệt 1,5° C, và trong bối cảnh giảm phát thải KNK nhanh, sâu từ nay đến năm 2050. (C.1)
Đạt được mức tăng nhiệt 1,5° C có nghĩa là phải giảm 48% lượng phát thải CO2 ròng vào năm 2030 so với mức năm 2019 và đạt mức phát thải CO2 ròng bằng 0 vào đầu những năm 2050. (C.1.2, C.2) Điều này cũng đồng nghĩa với việc giảm sâu lượng phát thải KNK khác, đặc biệt là khí mê-tan, cần giảm 45% phát thải loại khí này vào năm 2050 để giảm sự nóng lên ở mức đỉnh điểm, giảm khả năng vượt quá giới hạn nóng lên và tránh phụ thuộc vào lượng phát thải CO2 thuần âm. (C.1.2, C.2)
Để hạn chế sự nóng lên ở mức 1,5° C, cần giảm phát thải KNK sâu và nhanh chóng trên tất cả các lĩnh vực. Giảm đáng kể việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch tổng thể trong toàn ngành năng lượng, triển khai các nguồn năng lượng ít phát thải, chuyển sang các nguồn năng lượng thay thế, và tiết kiệm và hiệu quả năng lượng là trọng tâm để đạt được điều này. (C.3, C.4). Để giảm thiểu việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch nói chung, chúng ta sẽ cần các hệ thống điện có mức phát thải CO2 bằng 0 và điện khí hóa rộng rãi hệ thống năng lượng. Một số hoạt động sử dụng nhiên liệu hóa thạch ở mức tối thiểu có thể vẫn còn trong các lĩnh vực khó giảm, cùng với công nghệ thu giữ và lưu trữ carbon (CCS), làm cho khả năng đưa phát thải CO2 ròng về 0 trên tất cả các lĩnh vực trở nên khả thi. (C.4.1, C.5).
Có một số chính sách có lợi được ban hành nhanh chóng. Năng lượng mặt trời, năng lượng gió, điện khí hóa hệ thống đô thị, phủ xanh thành phố, sử dụng năng lượng hiệu quả, quản lý bên cầu, cải thiện quản lý rừng và cây trồng/đồng cỏ, giảm lãng phí và thất thoát thực phẩm, tất cả đều được công chúng ủng hộ, khả thi về mặt kỹ thuật và hiệu quả về mặt chi phí. (E.1.1)
Một số quốc gia đã sử dụng năng lượng tái tạo là chủ yếu. Trong một thế giới mà mức tăng nhiệt được giới hạn ở 1,5° C trong tương lai, hầu như tất cả điện năng sẽ được cung cấp bởi các nguồn có phát thải carbon bằng 0 hoặc carbon thấp vào năm 2050. Điện khí hóa đặc biệt quan trọng để cho phép khử cacbon trong vận tải đường bộ, công nghiệp, khai thác và sản xuất. Nó cũng có thể giúp đảm bảo an ninh năng lượng (C.3.2, C.4.3, C.5, C.5.2, D.1.3).
Năng lượng tái tạo
Hiện nay, xe điện chạy bằng nguồn điện có phát thải KNK thấp có tiềm năng khử cacbon lớn nhất trong lĩnh vực vận tải đường bộ. (C.8, C.8.3). Tiết kiệm và hiệu quả năng lượng cũng sẽ là một phần quan trọng của quá trình đưa phát thải ròng về 0, cùng với sự tích hợp thực tế, thể chế và hoạt động tốt hơn trên toàn hệ thống năng lượng. (C.4.1). Các biện pháp từ phía cầu và các phương thức mới trong việc cung cấp dịch vụ sử dụng cuối có thể làm giảm phát thải KNK toàn cầu trong các lĩnh vực sử dụng cuối từ 40-70% vào năm 2050, so với các chính sách hiện hành. (C.10, C.10.2). Những thay đổi mang tính hệ thống như làm việc từ xa, số hóa, quản lý chuỗi cung ứng và di chuyển thông minh và chia sẻ có thể giúp giảm nhu cầu đối với các dịch vụ hành khách và vận chuyển hàng hóa qua đường bộ, đường hàng không và đường biển. (C.8.2). Hầu hết phát thải khí mêtan có nguồn gốc từ khí thải phát ra từ quá trình sản xuất và vận chuyển nhiên liệu hóa thạch, và hầu hết (50-80%) có thể tránh được bằng các công nghệ hiện có với giá cả phải chăng. (C.4.5)
Loại bỏ CO2 là cần thiết
Loại bỏ carbon dioxide (CDR) đề cập đến các hoạt động của con người nhằm loại bỏ CO2 khỏi khí quyển và lưu trữ lâu dài trong các hồ chứa địa chất, trên cạn hoặc đại dương. Việc triển khai CDR để đối trọng với lượng phát thải tồn dư khó giảm thiểu là không thể tránh khỏi nếu muốn đạt được mức phát thải CO2 hoặc KNK ròng bằng 0. Các con đường được mô hình hóa giới hạn sự nóng lên ở mức 1,5° C liên quan đến việc giảm phát thải KNK nhanh hơn và sâu hơn trong giai đoạn cho đến năm 2030 và ít dựa vào việc loại bỏ CO2 (CDR) và phát thải CO2 âm ròng trong dài hạn. Sau khi cắt giảm phát thải sâu, nhanh chóng và bền vững, CDR có thể giúp cân bằng lượng phát thải tồn dư 'khó giảm thiểu' (ví dụ: phát thải từ nông nghiệp, hàng không, vận chuyển, các quy trình công nghiệp) để giúp đạt được mức phát thải ròng CO2 hoặc mức phát thải ròng nhà kính bằng 0 trong trung hạn. Nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất khác chỉ đóng góp hơn một phần năm (22%) phát thải KNK vào năm 2019.
Lĩnh vực đất đai có thể là một phần quan trọng để đạt được mức phát thải ròng bằng 0 nhưng nó không thể bù đắp cho việc giảm phát thải chậm trong các lĩnh vực khác. Phần lớn nhất của việc loại bỏ carbon trên đất liền đến từ việc giảm thiểu nạn phá rừng, bảo vệ và phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên bao gồm rừng, đất than bùn, đất ngập nước ven biển, savan và đồng cỏ. Việc quản lý cây trồng và vật nuôi được cải thiện và bền vững cũng có thể đóng góp một phần trong vấn đề này. Đất đai cho chúng ta rất nhiều lợi ích khác - đa dạng sinh học, bảo tồn hệ sinh thái, an ninh lương thực và nước, cung cấp gỗ, sinh kế, quyền sở hữu đất và quyền sử dụng đất cho người bản địa, cộng đồng địa phương và chủ sở hữu đất nhỏ. Cần cân nhắc sự đánh đổi khi dựa vào việc loại bỏ carbon trên đất liền.
Thúy Vân