Gỡ vướng mắc của doanh nghiệp bất động sản khi áp dụng Luật Đất đai 2024

Thứ ba, 15/10/2024, 15:24 (GMT+7)
logo Sáng ngày 15/10, tại Trung tâm Hội nghị quốc tế (Lê Hồng Phong, Hà Nội), Hiệp hội Bất động sản Việt Nam phối hợp với Bộ Tài Nguyên và Môi trường tổ chức Hội nghị Đối thoại giữa cơ quan soạn thảo luật, các chuyên gia, doanh nghiệp và báo chí với chủ đề: Áp dụng hiệu quả Luật Đất đai 2024 và các văn bản hướng dẫn thi hành vào thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp bất động sản.

Hội nghị lắng nghe các tham luận của đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường, Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội và các chuyên gia về: Những điểm mới đáng chú ý và cần lưu ý trong quá trình hướng dẫn, áp dụng và thực thi Luật đất đai 2024 của địa phương và doanh nghiệp bất động sản, đặc biệt là đối với những vấn đề còn nhiều cách hiểu. 

Bên cạnh đó cũng tập trung làm rõ các vấn đề "nóng hổi" liên quan đến: Quy hoạch đất đai, dự án; Đấu giá, đấu thầu dự án; Phương pháp định giá đất, bảng giá đất; xác định giá đất cụ thể đối với các trường hợp đã được giao đất, cho thuê đất trước Luật Đất đai 2024; các quy định chuyển tiếp; tác động đến doanh nghiệp bất động sản, giá bất động sản khi áp dụng cách tính giá đất mới...; và những vấn đề khác cần tiếp tục được cụ thể hóa đúng và đầy đủ trong các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành.

Hàng loạt những điểm mới trong Luật Đất đai năm 2024 đã được giải đáp trong Hội nghị Đối thoại. Đáng chú ý, ông Nguyễn Đắc Nhẫn, Phó Vụ trưởng Vụ Đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết có một số điểm như: Điểm mới thứ nhất liên quan đến vấn đề phân cấp, phân quyền trong công tác quản lý nhà nước về đất đai. Theo đó, Luật phân cấp toàn bộ thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng đất rừng, đất trồng lúa cho HĐND cấp tỉnh.

Điểm mới thứ hai liên quan đến vấn đề quyền của người sử dụng đất. Cụ thể, cá nhân trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam đều là “cá nhân” sử dụng đất. Như vậy, người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam có đầy đủ quyền và nghĩa vụ trong quản lý, sử dụng đất như cá nhân trong nước. Quy định này sẽ nâng cao hiệu quả sử dụng đất.

Gỡ vướng mắc của doanh nghiệp bất động sản khi áp dụng Luật Đất đai 2024

Ông Nguyễn Đắc Nhẫn, Phó Vụ trưởng Vụ Đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường

Điểm mới thứ ba liên quan đến vấn đề quy hoạch sử dụng đất. Cụ thể, Quy hoạch sử dụng đất quốc gia chỉ kiểm soát đối với chỉ tiêu đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên, đất quốc phòng, đất an ninh. Giao cho các địa phương xác định các chỉ tiêu sử dụng đất trong quy hoạch sử dụng đất.

Điểm mới thứ tư liên quan đến vấn đề thu hồi đất. Theo đó, Luật quy định cụ thể căn cứ, điều kiện thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.

Điểm mới thứ năm liên quan đến vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Cụ thể, Luật đã sửa đổi, bổ sung nguyên tắc bồi thường theo hướng đa dạng các hình thức bồi thường, gồm: Được bồi thường bằng đất có cùng mục đích với đất bị thu hồi, bằng tiền, bằng đất khác, bằng nhà ở.

Điểm mới thứ sáu liên quan đến vấn đề giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất.

Điểm mới thứ bảy liên quan đến vấn đề tài chính đất đai. Theo đó, bỏ quy định về khung giá đất của Chính phủ; Bảng giá đất lần đầu được công bố và áp dụng từ ngày 01/01/2026; được điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung hàng năm; cục bộ theo loại đất, theo khu vực.

Điểm mới thứ tám liên quan đến vấn đề chế độ sử dụng đất. Theo đó, Luật đã mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của cá nhân lên không quá 15 lần hạn mức giao đất nông nghiệp của cá nhân.

Gỡ vướng mắc của doanh nghiệp bất động sản khi áp dụng Luật Đất đai 2024

TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, Thành viên HĐTV chính sách tài chính, tiền tệ Quốc gia

Cũng trong hội nghị, TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, Thành viên HĐTV chính sách tài chính, tiền tệ Quốc gia chia sẻ về những điểm cần lưu ý trong quá trình hướng dẫn, áp dụng và thực thi Luật Đất đai 2024 của địa phương và doanh nghiệp bất động sản

Thứ nhất, định giá đất theo nguyên tắc thị trường: Bỏ khung giá đất (ban hành 5 năm/lần như hiện nay), thay bằng Bảng giá đất được công bố hàng năm từ ngày 1/1/2026.

Thứ hai là mở rộng đối tượng sử dụng đất. Theo đó, người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài chính thức là đối tượng sử dụng đất và được hưởng tương đối đầy đủ các quyền như công dân Việt Nam.

Thứ ba là việc mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp, cho phép tích tụ đất đai.

Thứ tư là cụ thể hóa khâu quy hoạch và đẩy mạnh phân cấp ủy quyền về quản lý nhà nước về đất đai. Khâu quy hoạch rất quan trọng, phải gắn với việc phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ năm là quy định rõ các trường hợp thu hồi đất gắn với đảm bảo bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại điều 79. Theo đó, Luật quy định rõ chỉ thu hồi đất trong trường hợp thực sự cần thiết vì lợi ích quốc gia, công cộng. Phải hoàn thành phê duyệt và bố trí tái định cư trước khi có quyết định thu hồi đất, đảm bảo cho người có đất bị thu hồi.

Thứ sáu, quy định các trường hợp đấu giá, đấu thầu quyền sử dụng đất hoặc lựa chọn nhà đầu tư: Quy định rõ các trường hợp không qua đấu giá, đấu thầu quyền sử dụng đất (Điều 124); các trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất; các trường hợp đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất…

Thứ bảy, linh hoạt hơn trong quy định về trả tiền thuê đất một lần hay hàng năm và bổ sung các trường hợp được miễn/giảm tiền thuê đất.

Thứ tám, quy định chi tiết thông tin, dữ liệu đất đai và trách nhiệm xây dựng, quản lý, khai thác hệ thống thông tin, dữ liệu quốc gia về đất đai.

Thứ chín, bổ sung các điều kiện kinh doanh và chế tài để tăng hiệu lực thực thi của Luật Đất đai 2024.

Thứ mười, có các quy định chuyển tiếp linh hoạt góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc tồn đọng lâu nay. Ví dụ như, về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (đã phê duyệt quy hoạch 2021-2030 thì tiếp tục thực hiện đến hết kỳ quy hoạch); về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi thu hồi đất (ưu tiên áp dụng giá đất tái định cư cao hơn, có lợi hơn cho người có đất bị thu hồi).

Gỡ vướng mắc của doanh nghiệp bất động sản khi áp dụng Luật Đất đai 2024

Hội nghị Đối thoại giữa cơ quan soạn thảo luật, các chuyên gia, doanh nghiệp và báo chí với chủ đề: Áp dụng hiệu quả Luật Đất đai 2024 và các văn bản hướng dẫn thi hành vào thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp bất động sản

Tại diễn đàn, một nội dung rất được quan tâm liên quan đến chia sẻ của doanh nghiệp về việc: Hiện nay, theo quy định mới tại điều 41 Nghị định số 101/2024/NĐ-CP hướng dẫn Luật Đất đai 2024, đặc biệt trong khoản 1 hướng dẫn các loại giấy tờ chứng minh dự án đủ điều kiện cấp sổ đỏ, thì có 7 loại giấy tờ. Doanh nghiệp cho biết, hiện nay đang vướng mắc ở 3 loại giấy tờ.

Thứ nhất, văn bản của cơ quan có thẩm quyền về nhà ở, công trình xây dựng, xác nhận nhà ở, công trình xây dựng, hạng mục công trình xây dựng đủ điều kiện đưa vào sử dụng theo quy định của pháp luật xây dựng, đang vướng ở chỗ: Trước kia theo Nghị định 06/2021/NĐ-CP hướng dẫn Luật Xây dựng, đối với những dự án cần cơ quan có thẩm quyền cụ thể kiểm tra lại kết quả nghiệm thu của doanh nghiệp, cơ quan đó có hai chức năng: một là chấp thuận kết quả nghiệm thu, hai là xác nhận dự án đó đủ điều kiện đưa vào sử dụng.

Nhưng tại Nghị định 35/2023/NĐ-CP sửa đổi, cơ quan này chỉ có 1 chức năng duy nhất là nghiệm thu kết quả, không có chức năng xác nhận dự án đủ điều kiện đưa vào sử dụng. Doanh nghiệp sẽ phải tự xây dựng hồ sơ dự án đáp ứng điều kiện đưa vào sử dụng theo quy định tại Nghị định 35. Nhưng trong Nghị định 35/2023/NĐ-CP cũng không có các nội dung nào nói: Sau khi doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nào xác nhận lại dự án của doanh nghiệp đã đáp ứng đủ điều kiện. Vì vậy, hiện doanh nghiệp đi làm hồ sơ cấp sổ đỏ đang bị vướng ở điểm a, khoản 1, Điều 41.

Thứ hai, theo doanh nghiệp, văn bản của cơ quan có thẩm quyền quản lý về kinh doanh bất động sản xác nhận quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, đủ điều kiện đưa vào kinh doanh theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản. Thực tế, doanh nghiệp hiểu là văn bản thông báo của cơ quan quản lý nhà ở địa phương về việc dự án đủ điều kiện đưa vào kinh doanh, còn một số Sở Xây dựng đang hiểu là văn bản này tương ứng với văn bản trước kia của Sở Tài nguyên và Môi trường xác nhận dự án đủ điều kiện cấp sổ. Vì vậy, câu hỏi đặt ra là theo Luật Kinh doanh bất động sản nó là giấy tờ nào?

Thứ ba là giấy chứng nhận đã cấp cho chủ đầu tư dự án, theo quy định Luật Kinh doanh bất động sản, đối với nhà ở hình thành trong tương lai khi đưa vào kinh doanh chỉ cần một trong các giấy tờ về đất đai, như quyết định giao đất, quyết định trúng đấu giá đất, hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nhưng Điểm e, Khoản 1 Điều 41 yêu cầu phải có giấy chứng nhận đã cấp cho chủ đầu tư?

Gỡ vướng mắc của doanh nghiệp bất động sản khi áp dụng Luật Đất đai 2024

Bà Phạm Thị Thịnh - chuyên viên cao cấp, Trưởng phòng Đăng ký đất đai, Cục Đăng ký và Dữ liệu thông tin đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường

Trả lời về nội dung này, bà Phạm Thị Thịnh - chuyên viên cao cấp, Trưởng phòng Đăng ký đất đai, Cục Đăng ký và Dữ liệu thông tin đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường trả lời: Tất cả các nội dung này đều dẫn chiếu theo pháp luật chuyên ngành. Điểm a, khoản 1 Điều 41 là văn bản của cơ quan có thẩm quyền quản lý xác nhận dự án đủ điều kiện đưa vào sử dụng theo quy định của pháp luật về xây dựng. 

Theo pháp luật về xây dựng, văn bản nào của luật xác nhận dự án đủ điều kiện đưa vào sử dụng thì nó sẽ là văn bản đó. Ví dụ các văn bản về kiểm tra, nghiệm thu đủ điều kiện đưa vào sử dụng sẽ là văn bản chứng minh dự án đủ điều kiện đưa vào sử dụng, để làm sao khi cơ quan chức năng cấp giấy chứng nhận thì cũng đảm bảo đầy đủ.

Thứ hai, cũng theo bà Phạm Thị Thịnh, văn bản của cơ quan có thẩm quyền xác nhận quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất đủ điều kiện đưa vào kinh doanh, thì khi sửa luật, cơ quan soạn thảo thống nhất sẽ có một văn bản đủ điều kiện đưa vào kinh doanh mà các Sở Xây dựng đã làm. 

Còn với cách hiểu của một số Sở Tài nguyên và Môi trường là do trước đây giao cho họ việc thẩm định cả vấn đề điều kiện đưa vào kinh doanh, nhưng doanh nghiệp đã bán hàng ngay từ lúc xây móng. Vì vậy, lần này luật đã sửa, theo quy định của pháp Luật Kinh doanh bất động sản, sẽ không có nội dung Sở Tài nguyên và Môi trường xác nhận.

Thứ ba, giấy chứng nhận cấp cho chủ đầu tư dự án, bà Thịnh lưu ý doanh nghiệp đọc kỹ Nghị định số 101/2024/NĐ-CP của Chính phủ. Giấy chứng nhận với tên đầy đủ theo quy định của Luật Đất đai 2024 là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất, còn chỉ giấy chứng nhận thì sẽ là một trong sáu loại còn lại.

Bảo Loan