Hợp tác hòa bình về nước 

Thứ năm, 23/5/2024, 15:46 (GMT+7)
logo Tác động của biến đổi khí hậu với các hiện tượng thời tiết cực đoan như hạn hán, lũ lụt,… cùng sự gia tăng dân số dẫn đến nhu cầu sử dụng nước tăng không chỉ trong đời sống hàng ngày mà cả trong nông nghiệp và các ngành công nghiệp,… đã và đang đặt ra nhiều thách thức với nguồn tài nguyên hữu hạn này. Tiếp cận nguồn nước là quyền của con người. Tuy nhiên, khi nước khan hiếm hoặc ô nhiễm, hoặc khi mọi người không được tiếp cận bình đẳng hoặc không có khả năng tiếp cận với nước, căng thẳng có thể gia tăng, nước có thể châm ngòi cho xung đột. Ngược lại, nước có thể tạo ra hòa bình.

Hợp tác hòa bình về nước 

Xung đột nguồn nước - vấn đề nóng trên thế giới

Những nguồn tài nguyên cơ bản và thiết yếu là gốc rễ của nhiều vụ đụng độ, nhưng chỉ riêng tranh chấp về nước sẽ không gây ra bạo lực. Thay vào đó, nước có thể được coi như một tác nhân góp phần vào các vấn đề khác như sự nghèo khổ, bất bình đẳng và nạn đói.

Sự gia tăng dân số, thực trạng đô thị hóa, cơ sở hạ tầng và quản trị kém đã và đang dẫn đến tình trạng căng thẳng về nước ở Iran. Quốc gia này cũng chứng kiến sự bất hòa với nước láng giềng Afghanistan về vấn đề chia sẻ nguồn nước của sông Helmand. 

Ấn Độ và Pakistan cùng chia sẻ nước sông Indus và tranh cãi đã tồn tại từ lâu giữa hai quốc gia này. Hai nước đã phân chia quyền sử dụng đối với sông Indus và các phụ lưu trong Hiệp ước Indus Waters năm 1960. Tuy nhiên, căng thẳng đã bùng phát trong thời gian gần đây. Thảm họa về nguồn nước của Ấn Độ kéo dài với cuộc xung đột đang diễn ra trên sông Indus với Pakistan cho đến những đợt hạn hán nghiêm trọng ở nước này, nhiều lần gây ra tình trạng khủng hoảng thiếu nước trên khắp Ấn Độ. Những trận mưa gió mùa kéo dài gần đây đã làm tăng thêm mức độ trầm trọng của cuộc khủng hoảng với ước tính cho thấy, 40% dân số Ấn Độ có thể không được tiếp cận với nước sạch vào năm 2030.

Lượng mưa không đồng đều, lượng nước khan hiếm khiến Tây Ban Nha là quốc gia khô cằn nhất châu Âu. Bên cạnh đó, hơn một triệu giếng khoan trái phép nằm rải rác trên khắp cả nước cùng sự khai thác quá mức làm sự thiếu hụt nước ngày một gia tăng, không chỉ gây nên mất an toàn nguồn nước, mà nó còn ẩn chứa rủi ro cho người dân sinh sống trong khu vực liên quan đến sụt lún đất,… 

Ngay tại Đông Nam Á, các đập của Trung Quốc ở thượng nguồn sông Mê Công giữ lại một lượng nước khổng lồ. Trong mùa gió mùa, lượng nước từ các đập của Trung Quốc chỉ chiếm nhỏ hơn 7% lượng nước trong toàn bộ hệ thống nên không tác động nhiều. Nhưng trong mùa khô và thời kỳ hạn hán, nước từ các đập thượng nguồn của Trung Quốc chiếm 40-50% lượng nước trong hệ thống Mê Kông. Vì vậy, vào thời gian đó, việc các đập của Trung Quốc vận hành thế nào sẽ ảnh hưởng rất lớn đến lượng nước đổ về các nước vùng hạ lưu sông Mê Kông.

Xung đột nước đã xuất hiện ở Việt Nam từ lâu, nhưng hạn hán khiến tình trạng này càng thêm nghiêm trọng. Trước đây, hầu hết xung đột nước diễn ra trong một cộng đồng đơn lẻ, hoặc ở quy mô địa phương và giữa những người có cùng mục đích sử dụng nước. Xung đột giữa các bên sử dụng nước với các mục đích khác nhau ít xảy ra hơn và chủ yếu là do ô nhiễm nước chứ không phải do thiếu nước. Nhưng tình hình giờ đây đã thay đổi: Ngược lên vùng Tây Bắc ở Sơn La, hay các tỉnh miền Trung như: Nghệ An, Quảng Nam, đến vùng Đồng bằng sông Cửu Long đều xảy ra các tranh chấp do thiếu nước, thậm chí nhiều nơi còn dẫn đến xô xát, bạo lực. Ví dụ, tranh chấp về nguồn nước suối Mơ và suối Thơ giữa xã Đại Đồng và Đại Quang, huyện Đại Lộc (tỉnh Quảng Nam), hay tranh chấp nước giữa hai tỉnh Đà Nẵng và Quảng Nam liên quan đến công trình thủy điện Đắk Mi 4 đã cắt dòng sông Đắk Mi để phát điện nhưng không trả nước về sông Vu Gia mà lại đổ về sông Thu Bồn,…

Nước có thể là nguyên nhân xung đột khi lợi ích của những người sử dụng nước khác nhau, không thể hòa giải hoặc khi số lượng và/hoặc chất lượng nước giảm, có thể ảnh hưởng đến sức khỏe con người và hệ sinh thái.

Nước có thể là vũ khí trong xung đột vũ trang, được sử dụng như một phương tiện để giành hoặc duy trì quyền kiểm soát lãnh thổ và dân cư hoặc như một phương tiện để gây áp lực cho các nhóm đối thủ.

Nước có thể là nạn nhân của xung đột khi tài nguyên nước là mục tiêu của bạo lực như các cuộc tấn công vào hệ thống đê điều, các nhà máy nước, gây ra những rủi ro nghiêm trọng về sức khỏe và vi phạm luật nhân đạo quốc tế. Nước có thể là một công cụ mang lại hòa bình và là chất xúc tác cho sự phát triển bền vững. Chúng ta cần nhận thức nước không chỉ là tài nguyên để sử dụng và cạnh tranh mà còn là quyền của con người, vốn có trong mọi khía cạnh của cuộc sống. 

Tăng cường quản trị và tận dụng nước vì hòa bình

Một là, nhận biết nước là hữu hạn: Nước ngọt đã vượt quá giới hạn an toàn trên quy mô toàn cầu, ảnh hưởng đến tính toàn vẹn của các hệ thống tuần hoàn nước trên trái đất. Tình trạng thiếu nước tiếp tục diễn ra ở một số khu vực và dự kiến sẽ gia tăng. Sự hợp tác giữa các quốc gia là điều cần thiết để xem nước là nhu cầu chung toàn cầu, nhu cầu của tất cả mọi người.

Hai là, dùng nước làm điểm khởi đầu cho đối thoại: Căng thẳng về nguồn nước nhìn chung khó có thể leo thang thành xung đột vũ trang ở cấp độ liên quốc gia; tuy nhiên, xung đột bạo lực về nước ngọt ở cấp địa phương đang gia tăng và làm xói mòn an ninh ở cấp quốc gia và khu vực. Trong khi nước thường được coi là vấn đề an ninh mềm và được coi là mối đe dọa phi quân sự; là một vấn đề ít nhạy cảm hơn đối với một số khu vực nhất định. Các quốc gia nên ưu tiên xây dựng mối quan hệ thông qua đối thoại về trách nhiệm chung và việc sử dụng nước. Các cuộc đối thoại định kỳ về các vấn đề nước không chỉ đơn thuần là đánh dấu vào các thỏa thuận mà là thiết lập các mối quan hệ lâu dài và bền vững, đồng thời, có thể giải quyết các vấn đề an ninh lớn hơn nếu tình huống thù địch liên quan đến nước xảy ra.

Ba là, đưa quản lý nước vào hành động vì khí hậu: Điều này đặt ra những thách thức mới cho việc quản lý các vùng sử dụng chung nguồn nước như sông Mê Kông, sông Hồng,… nơi đang gia tăng tác động của sự bất ổn về khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan. Ở những vùng có chất lượng và/hoặc số lượng nước ít, biến đổi khí hậu có thể làm tăng thêm rủi ro liên quan đến ô nhiễm, xâm nhập mặn. Ví dụ, tình trạng khan hiếm nước do biến đổi khí hậu có thể liên quan đến tình trạng mất an ninh lương thực, bất ổn sinh kế hoặc di dời dân cư. Quản lý nguồn nước hiệu quả để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu có thể giúp các khu vực xây dựng và giảm bớt những lý do tiềm ẩn gây ra tình trạng bất ổn về an ninh nguồn nước.

Bốn là, phân phối lại quyền lực: Cần có các cơ chế trao quyền cho các tổ chức cấp lưu vực để quản lý và hợp tác về nước như một lợi ích chung. Các tổ chức lưu vực sông đóng vai trò then chốt trong quản trị nước vì họ cung cấp nền tảng để chia sẻ thông tin, đối thoại và phát triển năng lực. Chúng là chìa khóa để đạt được an ninh nước, cải thiện sinh kế và ngăn ngừa xung đột. 

Năm là, phi thực dân hóa quản lý nước: Để duy trì hòa bình, điều quan trọng là các chính phủ phải nhận thức và tích cực làm việc để phi thực dân hóa các phương pháp quản lý nước. Một ví dụ phổ biến về thực dân hóa nguồn nước là việc tạo ra các đập lớn để kiểm soát và định lượng nước cho con người sử dụng trong sinh hoạt và sản xuất. Tuy nhiên, ngoài việc đáp ứng sinh kế và sản xuất, nước còn có giá trị thẩm mỹ, văn hóa, tinh thần, quan hệ và sinh thái, đồng thời, được coi là một thực thể sống của một số cộng đồng.

TS. LÊ VIỆT HÙNG
Khoa Tài nguyên nước, Đại học Tài nguyên và Môi trường
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 7 năm 2024