
Khai thác tiếp tục tăng
Thực trạng khai thác cát
Hiện nay, ĐBSCL có khoảng 82 công ty được cấp phép khai thác 28 triệu tấn cát sông mỗi năm. Tuy nhiên, khối lượng cát được báo cáo và lượng cát khai thác thực tế rất khó để kiểm soát, tình trạng khai thác cát trái phép vẫn diễn ra thường xuyên. Ngân hàng cát (là khoảng chênh lệch giữa khối lượng cát sông được vận chuyển về từ thượng nguồn với lượng cát khai thác trên toàn đồng bằng, cũng như lượng cát đổ ra biển) của ĐBSCL đã cho thấy hàng năm lượng trầm tích bị thâm hụt khoảng 25 triệu tấn do khai thác cát và bị giữ lại do các nhà máy thủy điện được xây dựng. Con số này được dự đoán sẽ còn tăng trong các năm sắp tới. Cát được khai thác trong 20 năm qua với số lượng ngày càng tăng dẫn đến hậu quả nghiêm trọng: xói mòn các nhánh sông, tiếp tục xói lở bờ gia tăng (khoảng 500ha/năm) đã làm Đồng bằng thay đổi hình dạng. Hơn 70% cát khai thác được sử dụng để san lấp. Tuy nhiên, các cơ quan nhà nước, các tổ chức đoàn thể, các tổ chức xã hội dân sự và đại diện của khu vực tư nhân, thiếu kiến thức về tác động môi trường của việc khai thác với tốc độ như hiện tại và việc sử dụng cát sông không bền vững, ví dụ để san lấp. Các bên liên quan không biết rằng ngân hàng cát đã bị thâm hụt trong nhiều năm. Theo Bộ Xây dựng, tài nguyên cát sỏi tự nhiên của Việt Nam có thể cạn kiệt trong hơn 10 năm tới. Hiện nay, cát sông vẫn được phân loại là vật liệu xây dựng thông thường trong Luật Khoáng sản năm 2010 nên việc khai thác cát trên địa bàn tỉnh do UBND tỉnh phê duyệt quy hoạch thăm dò, sử dụng và khai thác cát lòng sông. Sở TNMT được phân công là đơn vị quản lý và cấp phép khai thác cát sông. Chỉ những mỏ cát liên quan đến hai tỉnh thì Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp phép. Tuy nhiên, ở không ít địa phương vẫn diễn ra tình trạng khai thác cát trái phép do nhu cầu về cát xây dựng và cát san lấp của người dân, doanh nghiệp ngày càng lớn trong khi việc cấp phép khai thác cát bị hạn chế. Các đối tượng khai thác, vận chuyển cát, sỏi trên sông sử dụng nhiều thủ đoạn qua mặt cơ quan chức năng (khai thác vào ban đêm, gần sáng, tổ chức cảnh giới, thông báo cho nhau khi có cơ quan chức năng kiểm tra) gây khó khăn cho công tác kiểm tra, quản lý.
Nhiều doanh nghiệp được cấp phép khai thác cát, sỏi xây dựng chưa tuân thủ quy định theo Giấy phép được cấp (thời hạn cấp phép, công suất khai thác, vị trí khai thác), không chấp hành đúng các quy định của pháp luật có liên quan, dẫn đến tình trạng sạt lở, biến đổi dòng chảy, mất an toàn giao thông đường thủy… Chính phủ đã có động thái hạn chế và xác định hạn ngạch khai thác, tuy nhiên việc xác định chi tiết trữ lượng khai thác cát bền vững chưa có cơ sở tin cậy do thiếu dữ liệu khoa học về định lượng cát. Hiện tại, các cơ quan quản lý nhà nước không kiểm soát được khối lượng cát được khai thác cũng như ngăn chặn việc khai thác cát trái phép. Hơn nữa, các nhà ra quyết định ở địa phương có rất ít kiến thức về tác động tích lũy của việc khai thác cát ở địa phương.
Năng suất sản xuất nông nghiệp và các dịch vụ sinh thái của đồng bằng phụ thuộc nhiều vào sự lắng đọng trầm tích. Không có dòng trầm tích (cát, bùn, sét) từ thượng nguồn và các phụ lưu của sông Mekong, đất phù sa của đồng bằng - đã được bồi lắng qua hàng ngàn năm - sẽ biến mất vào biển. Nguồn cung cấp trầm tích lâu đời từ thượng nguồn đến ĐBSCL hiện đang bị đe dọa ở nhiều khía cạnh do áp lực sử dụng tăng: (i) khai thác thương mại vật liệu trầm tích dưới lòng sông (khai thác cát sỏi), (ii) giảm tải lượng trầm tích liên quan đến việc phát triển thủy điện ở thượng nguồn và (iii) khai thác nước ngầm quy mô lớn đã ảnh hưởng đáng kể đến sự ổn định địa mạo của đồng bằng. Nếu không có những hành động phối hợp hiệu quả, tình trạng sạt lở các bờ sông Cửu Long và vùng duyên hải sẽ ngày càng trầm trọng, khiến hơn hàng chục ngàn hộ gia đình sống ven sông Tiền và sông Hậu đứng trước nguy cơ mất nhà. Khai thác cát không bền vững cũng làm suy giảm sự đa dạng, phong phú của các loài cá và thay đổi thảm thực vật ven sông. Biến đổi khí hậu càng làm trầm trọng hơn những ảnh hưởng của khai thác cát không bền vững ở đây, làm gia tăng rủi ro xâm nhập mặn, triều cường, kéo theo mực nước biển dâng cao ở mức chưa từng có trước đây. Những áp lực môi trường này có thể phá huỷ khả năng chống chịu, đe dọa nền nông nghiệp, kinh tế và đa dạng sinh học của vùng đồng bằng này.
Ảnh hưởng khi khai thác không bền vững
ĐBSCL đang bị sụt lún và thu hẹp do việc khai thác nước ngầm quá mức cho phát triển nông nghiệp và các mục đích khác như các đập ở thượng nguồn, việc sử dụng nước ở thượng nguồn và khai thác cát sông ngày càng tăng khiến dòng chảy của nước và trầm tích bị giảm; giảm bổ sung các tầng chứa nước; mở rộng cơ sở hạ tầng, và nước biển dâng. Hậu quả là nhiễm mặn đất và các tầng chứa nước, cạn kiệt các tầng chứa nước, sự di cư của các loài cá bị hạn chế, gia tăng ô nhiễm, giảm dòng chảy của các chất dinh dưỡng, suy thoái vành đai rừng ngập mặn ven biển, hệ sinh thái chung bị ảnh hưởng, gây khó khăn cho nông nghiệp và nghề cá, đồng thời hạn chế nguồn nước sạch cho sinh hoạt.
Khai thác cát tràn lan
Theo các nghiên cứu của các nhà khoa học gần đây, những tác động từ việc khai thác không bền vững đang làm thay đổi vùng ĐBSCL, dự kiến sẽ làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến an ninh lương thực vào đầu năm 2050 và khả năng biến mất hoàn toàn của ĐBSCL vào năm 2100. Trong khi các phát triển công nghệ và việc thực thi các chiến lược giảm thiểu và thích ứng dự kiến chỉ hướng đến khắc phục phần lớn các vấn đề trong ngắn hạn, với sản lượng từ nuôi trồng thủy sản thực sự dự kiến sẽ tăng đáng kể đến năm 2050, nhưng tốc độ tăng trưởng giảm hiện tại, nếu không giảm sản lượng nông nghiệp, các biện pháp này có thể là không đủ vào năm 2100.
Việc khai thác cát sông quá mức dẫn đến mất môi trường sống ven sông và thủy sinh phá hủy hệ động thực vật địa phương, mất nơi lưu trú và lớp che phủ cho lòng. Ngoài ra, khai thác cát trực tiếp từ lòng sông đang chảy làm ảnh hưởng đến mật độ của các quần thể động vật không xương sống và cá ở đáy sông. Bên cạnh đó, tiếng ồn và sự dịch chuyển trong quá trình khai thác cát sông của thiết bị công nghiệp nặng có thể xua đuổi các loài động vật hoang dã dọc theo vùng ven sông. Những nghiên cứu khác cũng kết luận rằng việc một lượng lớn cát sông bị khai thác khỏi lòng sông góp phần trực tiếp làm hạ thấp mực nước ngầm. Cụ thể, khai thác cát sông quá mức gây xói mòn lòng sông có thể dẫn đến sự hạ thấp mực nước ngầm kết nối thủy văn với sông, làm giảm khả năng lưu trữ của tầng chứa nước ngọt, làm thay đổi chế độ thủy triều của sông. Thực tế, sự thâm hụt trầm tích gây ra do khai thác trong cửa sông hoặc ở thượng nguồn sông, có thể làm tăng sự xâm nhập của thủy triều vào cửa sông, biên độ thủy triều và lưu lượng triều đỉnh.
Sạt lở bờ sông
Theo một nghiên cứu về sự phát triển của ĐBSCL, kết quả cho thấy rằng ĐBSCL đang trải qua sự sụt giảm đáng kể về tốc độ biển tiến. Hiện nay, 66% đường bờ biển trên toàn đồng bằng đang có nguy cơ sạt lở. Các đoạn sạt lở chủ yếu nằm ở phía đông của Bán đảo Cà Mau và phía Tây Bắc của đồng bằng trong Vịnh Thái Lan. Trong tương lai gần, việc xây dựng các con đập theo kế hoạch ở phía thượng nguồn sông Mekong, mở rộng thủy lợi, khai thác nước ngầm, khai thác cát sông thiếu quy hoạch, sụt lún đồng bằng, nước biển dâng và các yếu tố khác sẽ đẩy nhanh quá trình sạt lở đồng bằng. Tình trạng sạt lở bờ sông Tiền, sông Hậu ở ĐBSCL ngày càng nghiêm trọng, gia tăng cả về tần suất và quy mô. Phương pháp địa chấn nông phân giải cao được sử dụng để khảo sát hiện trạng hai đoạn sông Tiền (cù lao Châu Mã và khu vực thành phố Sa Đéc) và sông Vàm Nao, từ đó đánh giá sự thay đổi hình thái lòng sông của đoạn sông Tiền trong Khu vực thành phố Sa Đéc. Kết quả cho thấy địa hình lòng sông tại khu vực nghiên cứu có sự thay đổi đáng kể về độ sâu, thành phần vật chất do chịu tác động mạnh các hoạt động của con người, chủ yếu là hoạt động khai thác cát lòng sông.
Hương Lan