Khai thác, sử dụng bền vững nguồn nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Nam

Chủ nhật, 12/12/2021, 09:01 (GMT+7)
logo Những năm gần đây, tài nguyên nước của các tỉnh ven biển miền Trung nói chung và tại tỉnh Quảng Nam nói riêng đối mặt với các vấn đề suy giảm trữ lượng nước ngọt, đặc biệt là ở những khu vực nhiễm mặn trong mùa khô. Nguồn nước bị suy giảm khiến các hoạt động kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh gặp rất nhiều khó khăn. Ngược lại, mặt trái của các hoạt động kinh tế - xã hội càng làm tài nguyên nước thêm biến động. Vậy, Quảng Nam cần thực hiện những giải pháp gì để ổn định tài nguyên nước, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội bền vững?

Khai thác, sử dụng bền vững nguồn nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Nam

TP. Hội An, tỉnh Quảng Nam (Ảnh minh họa).

Tiềm năng và trữ lượng tài nguyên nước

Quảng Nam là một tỉnh nằm ở Trung Trung Bộ, trong vùng kinh tế trọng điểm của miền Trung. Địa hình Quảng Nam có độ dốc lớn và nghiêng dần từ Tây sang Đông, đặc biệt, được bao quanh bởi các dãy núi cao, phân cắt mạnh ở phía Bắc, Tây và Nam, Quảng Nam cũng là một tỉnh có lượng mưa lớn nhất của cả nước trên 2.000 mm/năm (có nơi như vùng Ngọc Linh lượng mưa đến 5.000 mm/năm, Trà My trên 3.000 mm/năm), nên trữ lượng nước tiềm năng nước dưới đất (NDĐ) của tỉnh được đánh giá là khá phong phú. Nhưng do địa hình Quảng Nam có độ, chia cắt bởi các nhánh sông của hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn nên khu vực trung du, miền núi trữ lượng NDĐ rất ít, chủ yếu tập trung khu vực đồng bằng ven biển.

Nguồn NDĐ của tỉnh Quảng Nam phân bố tập trung chủ yếu tại các vùng đồng bằng ven biển, một số xã thuộc vùng đồng bằng duyên hải. Tại các huyện Điện Bàn, Duy Xuyên, TP. Hội An và TP. Tam Kỳ có nguồn nước ngầm tương đối phong phú và chất lượng nước tương đối tốt, còn lại một số xã ven biển, gần các cửa sông lớn thì nước bị nhiễm mặn, nhiễm phèn khá nghiêm trọng. Trữ lượng khai thác tiềm năng nguồn nước ngầm vùng đồng bằng của tỉnh theo tính toán khoảng 133.250 m3/ngày. Do đó, việc khai thác NDĐ cần căn cứ vào điều kiện địa chất thủy văn và nhu cầu từng vùng cụ thể để áp dụng các loại hình công trình khai thác phù hợp. Đồng thời, hạn chế và tránh khai thác một cách bừa bãi gây lãng phí nguồn tài nguyên quý giá này. Quảng Nam là một trong những tỉnh thực hiện tốt việc quản lý, khai thác TNN, nhằm mục đích phục vụ cho phát triển KT-XH. Theo số liệu thống kê, hiện nay trên địa bàn của tỉnh có 73 hồ chứa thủy lợi, dung tích hữu ích 497,46 triệu m3; cùng hệ thống kênh mương tương đối hoàn chỉnh, đã chủ động tưới trên 80% diện tích cây trồng.

Theo kết quả nghiên cứu của Đề tài khoa học cấp tỉnh “Giải pháp quản lý tổng hợp TNN trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030”, lượng nước mưa trên địa bàn toàn tỉnh Quảng Nam hơn 30 tỷ m3/năm, trong khi đó tổng lượng bốc hơi trên toàn diện tích bề mặt của tỉnh hơn 8 tỷ m3/năm. Như vậy, tổng TNN mưa trên địa bàn tỉnh hiện nay ước tính khoảng 22 tỷ m3/năm. Với lượng nước mưa dồi dào cộng thêm địa hình có độ dốc lớn nên trên lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn của tỉnh Quảng Nam phát triển nhiều công trình thủy điện vừa và nhỏ. Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 42 dự án thủy điện vừa và nhỏ được phê duyệt, trong đó có 17 công trình đã phát điện với tổng công suất 1.030,96 MW; điện lượng bình quân năm 3.921,85 triệu kWh/năm, 9 công trình đang xây dựng và 16 công trình đang rà soát chuẩn bị đầu tư. Các công trình thủy điện trên lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn hiện nay đang vận hành theo Quyết định số 1537/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy trình vận hành liên hồ chứa trên LVS Vu Gia - Thu Bồn.

Tài nguyên nước của tỉnh tuy phong phú, nhưng lại phân bổ và biến đổi không đều theo cả thời gian và không gian. Trong khi đó, nhu cầu dùng nước ngày càng tăng, diện tích bổ cập cho NDĐ đang dần bị thu hẹp; việc sử dụng phân bón, hóa chất bảo vệ thực vật cho cây trồng diễn biến phức tạp, tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng và tai biến địa chất ngày càng thể hiện rõ nét. Tình trạng hạn hán kéo dài và ngày càng khốc liệt, nguồn nước ngày càng trở nên khan hiếm trong khi nguồn nước ngầm đang ngày càng bị ô nhiễm trên diện rộng, người dân Quảng Nam sẽ phải đối mặt với tình trạng thiếu nước sạch nghiêm trọng hơn. Thực tế cho thấy, những năm gần đây, người dân ở một số xã thuộc huyện Núi Thành, dù sinh sống dọc sông Trường Giang nhưng lại phải dùng nguồn nước nhiễm phèn. Sở TN&MT tỉnh đánh giá, các huyện Núi Thành, Thăng Bình, Đại Lộc, Phú Ninh và TP. Tam Kỳ, đặc biệt những khu vực có thành phần thổ nhưỡng là đất cát, đất pha cát hoặc khu vực có độ sâu mực nước tĩnh thấp là nơi có nguồn nước ngầm dễ bị nhiễm bẩn bởi tác nhân sinh học và chất hữu cơ.

Tăng cường giải pháp bảo vệ nguồn nước cấp cho sinh hoạt

Sở TN&MT tỉnh Quảng Nam đã có công văn số 750/BC-STNMT báo cáo về thực hiện các giải pháp bảo vệ nguồn nước cấp cho các mục đích sinh hoạt, sản xuất, kinh doanh nước sạch theo Chỉ thị số 34/CT-TTg. Báo cáo nêu rõ, theo Quyết định số 1536/2019/QĐ-UBND về Ban hành danh mục đập, hồ chứa thủy điện lớn, vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam thì có 19 hồ chứa thủy điện lớn và 4 hồ chứa thủy điện vừa. Trong đó, 20 hồ chứa thủy điện đã hoàn thành việc cắm mốc hành lang bảo vệ nguồn nước theo phương án được UBND tỉnh Quảng Nam phê duyệt. Đối với hồ chứa thủy lợi, theo Quyết định số 416/2019/QĐ-UBND về Ban hành danh mục đập, hồ chứa thủy lợi trên địa bàn tỉnh thì có 73 hồ chứa thủy lợi, trong đó có 23 hồ chứa thủy lợi có dung tích từ 1 triệu m3 trở lên phải thực hiện cắm mốc hành lang bảo vệ nguồn nước theo quy định. Đối với các sông, suối, kênh, rạch, hồ tự nhiên, hồ nhân tạo ở các đô thị, khu dân cư tập trung và các nguồn nước khác đến nay tỉnh Quảng Nam vẫn chưa triển khai thực hiện việc cắm mốc do gặp phải một số khó khăn, vướng mắc.

Sở TN&MT tỉnh Quảng Nam cho biết, trên cơ sở phê duyệt vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt của công trình khai thác nước, Sở đã thông báo đến các địa phương và đăng tải trên trang web của Sở TN&MT để triển khai thực hiện. Việc quản lý, bảo vệ nguồn nước trên địa bàn tỉnh luôn được quan tâm, giám sát chặt chẽ; đặc biệt là các nguồn nước phục vụ cho mục đích cấp nước sinh hoạt. Đến nay, trên địa bàn tỉnh chưa phát hiện hành vi gây ô nhiễm hoặc có nguy cơ ô nhiễm, không đảm bảo an toàn cho việc khai thác nước của các công trình trong phạm vi vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt. Ngoài ra, Sở đã hoàn thành và đưa vào vận hành hệ thống quan tắc môi trường tự động, liên tục và đang triển khai thực hiện đầu tư, lắp đặt thiết bị thu nhận, lưu trữ dữ liệu giám sát khai thác, sử dụng TNN theo quy định tại Thông tư số 47/2017/TT-BTNMT, dự kiến hoàn thành đưa vào sử dụng trong năm 2021.

Sở TN&MT tỉnh Quảng Nam đã tham mưu UBND tỉnh phê duyệt Quyết định số 4011/2019/ QĐ-UBND về ban hành Danh mục nguồn nước nội tỉnh trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Công tác quản lý, cấp giấy phép TNN luôn được quan tâm, thực hiện theo đúng quy định của Luật TNN. Đến nay, UBND tỉnh Quảng Nam đã cấp 672 giấy phép TNN, trong đó: Xả nước thải vào nguồn nước 433 giấy phép; khai thác, sử dụng nước mặt 53 giấy phép; thăm dò NDĐ 19 giấy phép; khai thác, sử dụng NDĐ 176 giấy phép; hành nghề khoan NDĐ 2 giấy phép.

Trên địa bàn tỉnh Quảng Nam có 8 công trình khai thác, sử dụng nước mặt để phục vụ mục đích phát điện, sinh hoạt, sản xuất, trong đó: 6 công trình đã được UBND tỉnh cấp giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt và phê duyệt tiền cấp quyền khai thác TNN với tổng số tiền hơn 1,2 tỷ đồng; 2 công trình đang lập hồ sơ đề nghị cấp giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt. Riêng đối với các công trình hồ chứa, đập, cống, trạm bơm thủy lợi phục vụ cho mục đích sản xuất nông nghiệp với lưu lượng từ 0,1 m3/giây trở lên, hiện nay tỉnh đang chỉ đạo các đơn vị quản lý, vận hành lập hồ sơ đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt theo quy định.

ThS. LÊ VĂN

Viện Tài nguyên, Môi trường và Công nghệ sinh học