Khai thác, sử dụng đất cho hoạt động khoáng sản kết hợp đa mục đích: Thực tiễn và một số kiến nghị

Chủ nhật, 15/12/2024, 09:18 (GMT+7)
logo Sự đa dạng mục đích trong sử dụng đất nhằm khai thác tối ưu giá trị đất đai đáp ứng các yêu cầu phát triển của xã hội là nhu cầu khách quan, cần thiết trong quá trình phát triển, hướng tới thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. sử dụng đất kết hợp nhiều mục đích trên một khu đất, thửa đất đã diễn ra khá phổ biến ở nước ta thời gian qua, đặc biệt trong hoạt động khoáng sản tuy nhiên chưa có hành lang pháp lý điều chỉnh.

Khai thác, sử dụng đất cho hoạt động khoáng sản kết hợp đa mục đích: Thực tiễn và một số kiến nghị

Trước thực tiễn đó, Luật Đất đai năm 2024 đã bổ sung quy định về khai thác, sử dụng đất đa mục đích. Để có thể thực thi trong thực tiễn, hệ thống các quy định pháp luật chuyên ngành cần điều chỉnh đồng bộ. Trong bài viết này nhóm tác giả tập trung tổng kết thực tiễn khai thác, sử dụng đất cho hoạt động thời gian qua và chỉ ra những khoảng trống pháp luật về khoáng sản để đề xuất kiến nghị sửa đổi pháp luật về khoáng sản nhằm hướng tới thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững trong hoạt động khoáng sản ở Việt Nam.

Từ khóa: Đất cho hoạt động khoáng sản, phát triển bền vững trong hoạt động khoáng sản, bộ tiêu chí phát triển bền vững

Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là điều kiện cho sự sống, bởi vậy việc SDĐ tiết kiệm có hiệu quả và bảo vệ lâu bền nguồn tài nguyên vô giá này là nhiệm vụ vô cùng quan trọng và cấp bách đối với mỗi quốc gia. Khai thác, sử dụng hiệu quả đất đai nói chung, khai thác, sử dụng hiệu quả đất cho hoạt động khoáng sản nói riêng đang được các nhà khoa học, nhà nghiên cứu tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, dù tiếp cận dưới góc độ nào thì quá trình khai thác, SDĐ đai cần đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau: i) đất đai cần được sử dụng đầy đủ và hợp lý; ii) sử dụng có hiệu quả kinh tế cao; iii) sử dụng bền vững. Việc bố trí SDĐ phải đúng và phù hợp với chủng loại đất, điều kiện tự nhiên, khả năng của đất và nhu cầu thực tế cần có nhằm mang lại lợi ích KT-XH cao nhất, phù hợp với chức năng của khu vực đất đang được sử dụng vào mục đích KTKS.

Kinh tế tuần hoàn đang được cộng đồng quốc tế đánh giá là cách tiếp cận phù hợp và thực tiễn hơn cả để giúp nhân loại giải quyết được những thách thức đang đặt ra cho nhân loại. Đây là cách tiếp cận thay thế cho kinh tế tuyến tính, đã được Liên hợp quốc và nhiều tổ chức trên thế giới đánh giá là cách tốt nhất để phá vỡ mối liên hệ lâu nay giữa tăng trưởng kinh tế và ô nhiễm môi trường, tạo ra cơ hội mới cho tăng trưởng kinh tế, tạo ra việc làm nhưng vẫn đạt được mục tiêu sử dụng hiệu quả tài nguyên, giảm phát sinh chất thải và giảm tác động xấu đến môi trường, thực hiện thành công các mục tiêu phát triển bền vững. Thúc đẩy áp dụng kinh tế tuần hoàn đang là một xu hướng mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên thế giới; sáng kiến này đang nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ của cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức. Nhiều mô hình tốt, cách làm hay đã được áp dụng vào thực tiễn sản xuất, kinh doanh và quản lý chất thải đã chứng minh những giá trị và lợi ích kép của việc thực hiện kinh tế tuần hoàn. 

Nước ta là quốc gia được đánh giá có tiềm năng và đa dạng về tài nguyên khoáng sản, trong đó có một số loại khoáng sản có trữ lượng và giá trị lớn như bauxite, titan, đất hiếm, than, đá trắng,... Những năm gần đây, cùng với sự phát triển chung của cả nước, số tổ chức và cá nhân tham gia vào lĩnh vực KTKS tăng lên nhanh chóng và chiếm một tỉ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân.

Quá trình đẩy mạnh CNH-HĐH gắn với hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang mang lại những thành tựu đáng kể về KT-XH, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên khoáng sản Việt Nam đã đóng góp một phần không nhỏ cho quá trình đó. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng về cạn kiệt, lãng phí trong khai thác sử dụng tài nguyên. 

Luật Đất đai quy định về việc SDĐ cho hoạt động khoáng sản: (i) Có giấy phép thăm dò, KTKS và quyết định cho thuê đất để KTKS hoặc quyết định cho thuê đất sử dụng cho các công trình phụ trợ KTKS, để làm mặt bằng chế biến khoáng sản sử dụng làm bãi thải, kho chứa; (ii) Thực hiện các biện pháp BVMT, xử lý chất thải và các biện pháp khác để không gây thiệt hại cho người SDĐ trong khu vực và xung quanh; (iii) SDĐ phù hợp với tiến độ KTKS theo dự án và giấy phép KTKS đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; người SDĐ có trách nhiệm trả lại đất đúng với tiến độ KTKS và trạng thái lớp đất mặt được quy định trong hợp đồng thuê đất; (iv) Trường hợp thăm dò, KTKS mà không sử dụng lớp đất mặt hoặc không ảnh hưởng đến việc sử dụng mặt đất thì không phải thuê đất mặt.

Luật BVMT và các văn bản dưới luật quy định việc hoàn thổ và phục hồi môi trường sau khi kết thúc hoạt động khoáng sản. 

Luật Khoáng sản quy định về đóng cửa mỏ khoáng sản, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân khi thực hiện đóng cửa mỏ khoáng sản, hoàn trả lại đất sau KTKS. 

Theo quy định hiện hành, trước thời điểm hết hạn cấp phép KTKS, các doanh nghiệp phải thực hiện công tác cải tạo, phục hồi môi trường, hoàn trả mặt bằng, trồng cây xanh,... Doanh nghiệp sau khi kết thúc KTKS có trách nhiệm lập, trình cơ quan có thẩm quyền cấp phép trước đó phê duyệt đề án đóng cửa mỏ để thực hiện công tác cải tạo, phục hồi môi trường. Theo đó, doanh nghiệp phải báo cáo cơ quan có thẩm quyền cấp phép khai thác kiểm tra, nghiệm thu làm cơ sở ban hành quyết định đóng cửa mỏ. Tuy nhiên, thực trạng thực thi pháp luật thời gian qua về hoàn thổ, cả tạo phục hồi môi trường thời gian qua chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Nhiều doanh nghiệp hoạt động khoáng sản không thực hiện nghiêm các quy định về hoàn thổ, phục hồi môi trường dẫn đến tiềm ần nguy cơ mất an toàn và gây lãng phí diện tích đất tại các vùng mỏ đã ngừng khai thác.. Tình trạng các doanh nghiệp KTKS không thực hiện đúng cam kết hoàn thổ, trồng rừng và phục hồi nguyên trạng môi trường sau khai thác đã và đang diễn ra ở một số địa phương trên khắc cả nước, khiến dư luận bức xúc. 

Các mỏ khai thác lộ thiên ở Việt Nam thường có thời gian thực hiện khá dài. Các giấy phép đã được cấp, đặc biệt đối với khoáng sản than, titan, boxit thường có thời gian từ 10 đến 30 năm (chưa kể thời gian gia hạn). Như vậy, theo quy định hiện hành, thời hạn diện tích đất có khoáng sản phải thu hồi và chuyển đổi sang mục đích sang sử dụng cho KTKS cũng tương ứng với thời hạn giấy phép khai thác. Tổ chức, cá nhân được cấp phép KTKS sẽ phải thuê diện tích đất đó trong toàn bộ thời gian được cấp phép KTKS và lựa chọn hình thức nộp tiền thuê đất theo từng hình thức phù hợp (có thể là nộp theo từng năm hoặc nộp một lần cho toàn bộ vòng đời dự án). Mỗi hình thức nộp tiền thuê đất có những thuận lợi, khó khăn, tồn tại nhất định đối với tổ chức, cá nhân KTKS. Theo quy định, dù dưới bất kì hình thức nộp tiền thuê đất nào thì việc hoàn thổ, phục hồi môi trường và trả lại đất cho địa phương đều được thực hiện vào giai đoạn cuối cùng của dự án KTKS, sau khi kết thúc dự án. Thực tiễn khai thác nhôm bauxit tại các tỉnh Tây Nguyên thời gian qua cho thấy, việc KTKS được thực hiện theo hình thức “cuốn chiếu”, hàng năm các tổ chức, cá nhân chỉ sử dụng một phần diện tích đất đã cấp phép để KTKS và sau đó họ sẽ chuyển sang khai thác tại khu vực khác. Như vậy, trong một thời gian rất dài, một phần diện tích đất nằm trong tổng thể dự án đã được KTKS không sử dụng và cũng không được sử dụng vào mục đích khác, gây ra một sự lãnh phí rất lớn đối với nguồn lực đất đai quốc gia. 

Qua quá trình nghiên cứu tổng quan, nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới cho thấy, KTKS là hoạt động liên quan đến SDĐ tạm thời, do vậy sau khi kết thúc quá trình khai thác mỏ, cần tiến hành hoàn thổ, phục hồi môi trường, góp phần hạn chế các tác động tiêu cực tới môi trường của khu vực sau khai thác và cải tạo, trả lại diện tích đất cho xã hội để phục vụ các mục tiêu phát triển tiếp theo. Mục tiêu chung của công tác hoàn thổ, phục hồi môi trường là đảm bảo sự an toàn về môi trường và sức khỏe của người dân địa phương tại khu vực KTKS. Đối với mỗi khu vực và loại hình KTKS khác nhau, sẽ có những mục tiêu cụ thể về hoàn thổ, phục hồi môi trường khác nhau như: Hoàn trả lại diện tích đất với điều kiện tự nhiên có đầy đủ các giá trị môi trường như ban đầu; tái tạo lại các giá trị sinh thái và việc SDĐ gần giống với trước khi diễn ra hoạt động KTKS; xây dựng các mục đích sử dụng hoàn toàn khác so với hiện trạng SDĐ ban đầu trước khi khai thác; Chuyển đổi các khu vực có giá trị năng suất cây trồng thấp thành các khu vực an toàn và ổn định hơn. Việc hoàn thổ và phục hồi môi trường sau hoạt động khoáng sản đã được nhiều nước trên thế giới quan tâm và thực hiện từ hàng trăm năm nay nên kết quả BVMT trong hoạt động khoáng sản rất hiệu quả. Thay vì phải bỏ ra chi phí rất lớn để hoàn thổ và phục hồi môi trường, nhiều nước đã nghiên cứu thực hiện giải pháp gắn kết phục hồi môi trường sau KTKS với du lịch cảnh quan. Công việc này được tiến hành ngay từ khi lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và khả thi đối với dự án đầu tư KTKS. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, khi thực hiện giải pháp này đã mang lại lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp mỏ và ngành du lịch và nâng cao hiệu quả công tác BVMT trong hoạt động khoáng sản.

Ở Việt Nam, nhiều vùng khai thác mỏ bên cạnh tiềm năng khoáng sản còn có tiềm năng rất lớn cho ngành du lịch cũng như thực hiện, phát triển các hoạt động KT-XH. Tuy nhiên, do tính đặc thù của ngành khai thác mỏ cũng như nhiều cơ chế, chính sách hiện hành đang không cho phép các nhà đầu tư thực hiện đồng thời các các hoạt động này.

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Chiến lược phát triển KT-XH giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045 đã khẳng định “khuyến khích phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn để sử dụng tổng hợp và hiệu quả đầu ra của quá trình sản xuất”. Chiến lược phát triển KT-XH giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045; Kế hoạch phát triển KT-XH giai đoạn 2021-2025 đã đề ra nhiệm vụ: “khuyến khích phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn để sử dụng tổng hợp và hiệu quả đầu ra của quá trình sản xuất”; “xây dựng lộ trình, cơ chế, chính sách, pháp luật để hình thành, vận hành mô hình kinh tế tuần hoàn”. Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 16/6/2022 về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và SDĐ, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao, đã khẳng định “thời gian qua công tác quản lý và SDĐ còn nhiều hạn chế”; “Hệ thống QH, KHSDĐ và các quy hoạch có SDĐ chưa bảo đảm tính tổng thể, thống nhất và đồng bộ. Chất lượng quy hoạch chưa cao, thiếu tầm nhìn dài hạn, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững”; “Đất đai chưa được khai thác, sử dụng hiệu quả để trở thành nguồn lực quan trọng phục vụ phát triển KT-XH đất nước. Suy thoái, ô nhiễm, sạt lở đất ngày càng nghiêm trọng. Tình trạng đất nông nghiệp, đất dự án bị bỏ hoang còn nhiều”,... theo đó Đảng đã khẳng định “Nguồn lực đất đai được quản lý, khai thác, sử dụng bảo đảm tiết kiệm, bền vững, hiệu quả cao nhất;... tạo động lực để nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao” và xác định giải pháp là “Xây dựng các quy định pháp luật đối với quản lý và SDĐ kết hợp đa mục đích”. Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 10/02/2022 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 khẳng định “Công tác quản lý quy hoạch, điều tra cơ bản địa chất, khoáng sản, thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng khoáng sản phải có tầm nhìn chiến lược, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH cả trước mắt, trung và dài hạn; hài hòa giữa bảo tồn và phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, cảnh quan, di tích lịch sử, văn hóa, thích ứng với BĐKH, bảo đảm QP-AN, chủ quyền quốc gia”. Vùng có tài nguyên khoáng sản không đơn thuần là phục vụ cho mục đích khai thác, mà còn là tiềm năng phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ KT-XH khác. Việc khai thác các mỏ khoáng sản sẽ đến lúc cạn kiệt, do đó, việc kết hợp cũng như chuyển đổi mục đích đất các mỏ khai thác sau khi đóng cửa sang các mục đích sử dụng khác như phát triển du lịch, hay điều hòa nguồn nước hay nuôi trồng thủy sản là một hướng đi mới, hiệu quả, thích ứng với xu hướng phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn. Để làm được điều này, thời gian tới kiến nghị cần hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về khoáng sản hiện hành trên những nôi dung cơ bản sau: 

Thứ nhất, pháp luật về khoáng sản cần bổ sung các quy định để tích hợp các các yếu tố, tiêu chí về giá trị sinh thái, thẩm mỹ, văn hóa và kinh tế tại một số vùng mỏ có tiềm năng phát triển gắn kết du lịch để có quy hoạch bảo tồn, phục vụ nghiên cứu khoa học và du lịch cảnh quan,... trong quá trình xây dựng chiến lược, quy hoạch về đất đai, khoáng sản.

Thứ hai, bổ sung các các quy định, hướng dẫn lập, thẩm định, kiểm soát, giám sát đánh giá tác động môi trường đối với việc SDĐ khi thực hiện dự án đầu tư KTKS theo hướng xem xét các tác động cũng như tính toán, đánh giá hiệu quả KT-XH, môi trường đối với việc thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất cho hoạt động KTKS. 

Thứ ba, bổ sung quy định hướng dẫn về SDĐ cho hoạt động khoáng sản kết hợp các mục đích khác.

Thứ tư, bổ sung quy định hướng dẫn, thủ tục để các nhà đầu tư khai thác có hiệu quả các chức năng của vùng đất trong quá trình khai thác cũng như sau khi đóng cửa mỏ.

Thứ sáu, hoàn thiện quy định hiện hành về hoàn thổ, phục hồi môi trường sau KTKS theo phương án đánh giá “chức năng của vùng, khu vực đất” sau khi KTKS và sử dụng cho mục đích phù hợp không nhất thiết yêu cầu nhà đầu tư bắt buộc phải hoàn thổ, đưa đất về hiện trạng ban đầu.

Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Thị Kim Ngân, Phạm Đức Minh, Nguyễn Mạnh Tưởng và nnk, 2024, Nghiên cứu, xây dựng bộ tiêu chí phát triển bền vững trong hoạt động khoáng sản phục vụ sửa đổi Luật Khoáng sản năm 2010, Mã số: TNMT.2023.01.04;

2. Bộ TN&MT, 2022, Hồ sơ tiếp thu, giải trình về dự án Luật Địa chất và Khoáng sản trình Chính phủ tháng 5/2024.

ThS. NGUYỄN THỊ KIM NGÂN, ThS. PHẠM ĐỨC MINH, ThS. NGUYỄN MẠNH TƯỞNG
Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 15 (Kỳ 1 tháng 8) năm 2024