Với một xã nghèo, ở miền núi như Kim Phú (Quảng Trị), đặc biệt nơi đây có đồng bào dân tộc Rục - tộc người cuối cùng rời xa hang đá, nơi người dân quen sống trong rừng sâu, bằng săn bắt hái lượm. Mặc dù thời gian qua, người dân nơi đây đã bắt đầu quen với cái cuốc cái cày, quen với trồng lúa nước nhờ vào sự hỗ trợ của chính quyền địa phương. Nhưng để giúp người dân nơi đây tự chủ động cái ăn, cái mặc là sự nỗ lực lớn của toàn thể chính quyền và chính sách hỗ trợ cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số… Phóng viên Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường đã có cuộc trò chuyện ông Nguyễn Bắc Việt - Bí thư Đảng uỷ xã Kim Phú, Quảng Trị xung quanh vấn đề về giảm nghèo và tạo sinh kế bền vững.
PV:Thưa ông, thời gian vừa qua Đảng và Nhà nước đã có chính sách trong công tác giảm nghèo, hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số. Đối với một địa bàn đặc biệt như xã Kim Phú, đây còn là một xã miền núi còn có bà con dân tộc Rục thuộc diện khó khăn nhất, chính quyền của xã đã thực hiện chính sách thiết thực gì để hỗ trợ những hộ nghèo, cận nghèo thoát nghèo?
Ông Nguyễn Bắc Việt: Kim Phú là một xã miền núi còn nhiều khó khăn, nơi đây có bà con dân tộc Rục với những điều kiện đặc thù. Tuy nhiên, tôi khẳng định đời sống của bà con trên địa bàn đang từng bước được cải thiện rõ rệt. Kết quả này đến từ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị và sự đồng thuận, chung sức của nhân dân.
Trong thời gian qua, xã đã triển khai nhiều giải pháp nhằm đảm bảo an sinh và thúc đẩy phát triển bền vững cho bà con, hướng tới mục tiêu thoát nghèo bền vững.
Thứ nhất, tập trung nguồn lực nền tảng: Đảng ủy xã Kim Phú đã lồng ghép thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó ưu tiên sử dụng nguồn lực hỗ trợ đất sản xuất, nước sinh hoạt và nhà ở kiên cố cho hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc Rục.
Thứ hai, "trao cần câu" và đa dạng sinh kế: Công tác giảm nghèo được triển khai theo hướng thực chất, chú trọng "trao cần câu" thông qua đa dạng sinh kế. Đáng chú ý, mô hình “cầm tay chỉ việc” trong phát triển sinh kế đã mang lại chuyển biến rõ rệt. Chúng tôi đẩy mạnh việc giao khoán bảo vệ, chăm sóc và trồng rừng, hỗ trợ cây giống bản địa, đồng thời phát triển nhiều mô hình chăn nuôi như bò, dê, lợn sinh sản gắn với tập huấn kỹ thuật.
Thứ ba, tăng cường sự đồng hành: Xã đã phân công cán bộ, đảng viên phụ trách các hộ nghèo nhằm kịp thời hướng dẫn, đôn đốc, hỗ trợ và động viên người dân vươn lên thoát nghèo bền vững.
Thứ tư, đảm bảo an sinh xã hội: Chúng tôi đặc biệt quan tâm tới an sinh xã hội. 100% hộ nghèo, cận nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số được cấp thẻ BHYT. Công tác giáo dục được chú trọng, đảm bảo không có học sinh bỏ học, nhất là con em đồng bào người Rục.
PV: Thưa ông chúng ta thường hay nói đến khái niệm ‘cần câu” và “con cá”, vậy chính quyền và đoàn thể của xã đã có hành động cụ thể gì để giúp những hộ nghèo và cận nghèo thoát nghèo?
Ông Nguyễn Bắc Việt: Chúng ta thường nói đến khái niệm “cần câu” và “con cá’, quan điểm của xã là nếu chỉ dừng lại ở việc trao “cần câu” là chưa đủ, cái chúng ta cần hướng tới là phải dạy bà con cách sử dụng “cần câu”. Chỉ khi họ tự câu được cá, tự đứng vững trên đôi chân của mình, cái nghèo mới thực sự rời đi. Từ quan điểm ấy, xã Kim Phú đã phân định rất rõ vai trò của từng lực lượng.
Vai trò của Chính quyền: Chịu trách nhiệm cung cấp những “cần câu” mang tính nền tảng như: Hỗ trợ vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách Xã hội; cấp đất sản xuất, đất ở; đầu tư đường giao thông, điện lưới, trạm nước sạch. Chúng tôi chỉ đạo rà soát kỹ từng hộ để bảo đảm đồng vốn được dùng vào việc phát triển sinh kế. Đi cùng với đó, xã phối hợp mở các lớp tập huấn kỹ thuật trồng rừng, chăn nuôi… như một cách “dạy câu cá” bài bản.
Vai trò của các Đoàn thể: Các đoàn thể chính trị – xã hội xã đã có nhiều hoạt động thiết thực với phương châm “đi từng ngõ, gõ từng nhà”. Tại các bản, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên chính là những người theo sát từng hộ, giám sát việc sử dụng vốn vay, hướng dẫn cách làm chuồng trại, hỗ trợ ngày công. Thông qua các phong trào đã xuất hiện nhiều mô hình hay như “mô hình thu gom phế liệu gây quỹ” hay “thanh niên tình nguyện xung kích hỗ trợ chuyển đổi số”.
Sự phối hợp nhịp nhàng này đã giúp đưa “cần câu” đến đúng tay người dân và được sử dụng hiệu quả. Tư tưởng trông chờ, ỷ lại dần được thay thế bằng ý chí vươn lên. Công tác giảm nghèo không chỉ là hỗ trợ, mà là khơi dậy niềm tin của bà con vào chính mình.
PV: Vậy xã Kim Phú có phương án về sự phát triển bền vững, từ chăn nuôi đến cây trồng gì để giúp những người dân trong xã có cuộc sống ổn định và có thể làm giàu?
Ông Nguyễn Bắc Việt: Đảng ủy xã Kim Phú không chỉ đặt mục tiêu giảm nghèo mà còn xác định phải hướng đến phát triển bền vững, nâng cao thu nhập cho người dân thông qua các lĩnh vực chăn nuôi, trồng trọt, kinh tế rừng và dịch vụ.
Trong trồng trọt và kinh tế rừng: Xã đang phối hợp với Viện Môi trường nông nghiệp triển khai và xây dựng 2 mô hình trồng dứa và trồng cây lá khôi làm dược liệu dưới tán rừng tự nhiên tại 4 bản biên giới, thu hút khoảng 90 hộ gia đình tham gia. Đây là hướng đi mới giúp bà con giảm nghèo bền vững. Đồng thời, khuyến khích chuyển đổi từ trồng keo, tràm sang trồng rừng gỗ lớn với các giống cây bản địa và thực hiện mô hình nông – lâm kết hợp.
Trong chăn nuôi: Xã xác định tập trung phát triển chăn nuôi bền vững bằng việc lựa chọn các giống vật nuôi phù hợp điều kiện miền núi như dê núi, bò lai, lợn bản địa. Khuyến khích người dân chuyển đổi mô hình nhỏ lẻ sang nông hộ, gia trại tập trung, đồng thời quy hoạch vùng chăn nuôi và tăng cường hỗ trợ thú y, kỹ thuật.
Chúng tôi đẩy mạnh đào tạo nghề, triển khai các chính sách hỗ trợ khởi nghiệp, vốn vay ưu đãi và nhân rộng mô hình kinh tế giỏi. Ngoài ra, vận động người lao động tham gia xuất khẩu lao động, coi đây là một hướng quan trọng để tạo việc làm, nâng cao thu nhập và góp phần giảm nghèo bền vững.
PV: Ý nghĩa nhân văn sâu sắc của các hoạt động hướng về người nghèo, hoàn cảnh khó khăn đã lan tỏa mạnh mẽ, trở thành “mệnh lệnh từ trái tim” với tinh thần “ở đâu có người nghèo là ở đó có sự hỗ trợ, sẻ chia, có những tấm lòng yêu thương, đùm bọc” và “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Thời gian qua, chính quyền và người dân đã đồng hành như thế nào trong việc giúp những người nghèo có sự hỗ trợ, sẻ chia?
Ông Nguyễn Bắc Việt: Đảng ủy, HĐND, UBND và Mặt trận Tổ quốc giữ vai trò phát động mạnh mẽ các phong trào như Quỹ Vì người nghèo, Tháng cao điểm Vì người nghèo. Chúng tôi chỉ đạo rà soát rất kỹ từng hoàn cảnh, nắm chính xác nguyên nhân nghèo để hỗ trợ đúng đối tượng, công khai và minh bạch. Xã cũng phối hợp với Đồn Biên phòng thường xuyên hỗ trợ bà con đồng bào duy trì và phát triển hiệu quả mô hình trồng lúa nước tại Rục Làn.
Với đặc thù địa bàn dễ bị chia cắt khi mưa lũ, Đảng ủy đã chỉ đạo UBND xã chủ động dự trữ lương thực, thực phẩm thiết yếu, tuyệt đối không để bà con thiếu đói trong thời gian bị cô lập. Mặt trận và các đoàn thể tích cực kêu gọi, huy động nguồn lực hỗ trợ kịp thời.
Bà con đồng bào vùng dân tộc luôn đồng lòng hưởng ứng. Hưởng ứng chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát, bà con nhân dân đã tích cực giúp đỡ đóng góp ngày công để xây dựng và hoàn thiện. Nhờ sự chung tay ấy, nhiều ngôi nhà kiên cố, ấm áp đã hoàn thành, giúp các hộ nghèo ổn định cuộc sống.
PV: Trong công cuộc đồng hành, giúp sức, hỗ trợ, cùng thực hiện những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác giảm nghèo có những thận lợi và khó khăn gì thưa ông?
Ông Nguyễn Bắc Việt: Về thuận lợi, trước hết phải khẳng định rằng công tác giảm nghèo luôn nhận được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đã tạo hành lang pháp lý và nguồn lực rất quan trọng để chúng tôi triển khai. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương, các đoàn thể chính trị – xã hội và nhân dân đều có quyết tâm cao, tinh thần đoàn kết tốt. Các mô hình hỗ trợ sinh kế đã bước đầu mang lại hiệu quả, tạo niềm tin cho bà con. Một thuận lợi đáng ghi nhận nữa là sự đồng lòng của người dân và các mạnh thường quân sẵn sàng hỗ trợ, giúp đỡ những hộ nghèo trên địa bàn.
Tuy nhiên, xã chúng tôi cũng còn rất nhiều khó khăn. Khó khăn lớn nhất xuất phát từ điều kiện tự nhiên và kinh tế – xã hội: Kim Phú là xã miền núi, địa bàn rộng, giao thông đi lại còn khó khăn, tác động trực tiếp đến sản xuất và tiếp cận dịch vụ của người dân. Đồng bào dân tộc Rục – nhóm dân tộc đặc biệt ít người có xuất phát điểm thấp, trình độ sản xuất còn lạc hậu, tập quán canh tác truyền thống khó thay đổi, dẫn đến việc triển khai các mô hình sinh kế gặp nhiều trở ngại. Cán bộ phải "cầm tay chỉ việc", kiên trì vận động thì bà con mới tin theo. Hiện nay, vẫn còn một bộ phận người dân có tâm lý trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước, thiếu ý chí vươn lên và chưa mạnh dạn tìm tòi, đổi mới phương thức sản xuất. Bên cạnh đó, nguy cơ tái nghèo luôn rất cao. Các hộ mới thoát nghèo có nền tảng rất mong manh, chỉ cần một người ốm đau nặng là ngay lập tức có thể rơi vào cảnh nợ nần và tái nghèo. Cuối cùng, nguồn lực hỗ trợ từ các chương trình nhiều khi còn hạn chế so với nhu cầu thực tế, nhất là về hạ tầng thiết yếu và vốn đầu tư sản xuất.
Trân trọng cám ơn ông!