news

Kỳ 1: Giảm nghèo thời biến đổi khí hậu - Khi cú sốc thiên tai xóa sạch thành quả nhiều năm

Chủ nhật, 7/12/2025, 20:52 (GMT+7)
logo Năm 2025, một năm được đánh giá “đặc biệt khắc nghiệt” về thiên tai tại Việt Nam đã ghi nhận hơn 409 người chết hoặc mất tích, cùng hàng trăm người bị thương sau loạt bão, lũ và sạt lở và thiệt hại kinh tế sơ bộ vượt 85.000 tỷ đồng. Đối với nhiều hộ nghèo ở vùng núi, ven biển hay nông thôn, sinh kế thường gắn với con trâu, sào ruộng hay ngôi nhà nhỏ vốn là tài sản tích góp sau nhiều năm có thể bị cuốn trôi chỉ trong một đêm. Một cú sốc thiên tai như vậy đủ để xóa sạch những thành quả vươn lên sau cả chục năm giảm nghèo, đặt ra thách thức to lớn cho mục tiêu giảm nghèo bền vững..
image-2_1765104336.webp
Ngập lụt diện rộng tại một vùng dân cư sau mưa bão. Hình ảnh cho thấy mức độ tổn thương lớn của các cộng đồng dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan.

Thành quả giảm nghèo dưới “bóng mây” khí hậu cực đoan

Hai thập kỷ qua, Việt Nam được coi là “câu chuyện thành công” về giảm nghèo. Tính theo nghèo đa chiều, tỷ lệ nghèo đã giảm từ 9,2% năm 2016 xuống khoảng 2,4% năm 2024. Nếu tính theo tỷ lệ nghèo đa chiều của Bộ Lao động Thương binh và xã hội (trước đây) thì hộ nghèo và hộ cận nghèo - con số này giảm từ 7,52% năm 2022 xuống 4,06% năm 2024; riêng số hộ nghèo, cận nghèo đã giảm 47,4% chỉ trong ba năm 2021- 2024.

Tỷ lệ nghèo đa chiều dự kiến tiếp tục giảm chỉ còn khoảng 1,3% vào năm 2025 theo báo cáo tổng kết Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2021- 2025. Đặc biệt, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số, nhóm nghèo “lõi” đã giảm bình quân trên 3%/năm, từ mức hơn 25% năm 2021 xuống 16,5% năm 2023 và khoảng 12,55% năm 2024.

Những con số đó cho thấy, nỗ lực rất lớn của hệ thống chính sách giảm nghèo, từ Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 với 7 dự án thành phần, đầu tư hạ tầng, đa dạng hóa sinh kế, hỗ trợ sản xuất, giáo dục nghề nghiệp, việc làm bền vững, hỗ trợ nhà ở, truyền thông, đến nâng cao năng lực và giám sát.

Nhưng phía sau thành tựu ấy là cảm giác mong manh. Báo cáo của Chương trình Cải cách Kinh tế vĩ mô/Tăng trưởng xanh Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức GIZ tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là GIZ) cảnh báo, nhiều người nghèo không có khả năng phục hồi trước các cú sốc như thiên tai, bệnh tật, mất việc, mất mùa; không ít hộ vừa vượt lên trên ngưỡng nghèo lại tái nghèo khi gặp biến cố. Điều đó cho thấy “chất lượng” của thoát nghèo chưa bền vững, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH) ngày càng khốc liệt.

Khi thiên tai trở thành “bẫy tái nghèo”

Việt Nam được xếp vào nhóm các quốc gia dễ bị tổn thương nhất trước BĐKH. Hạn hán, xâm nhập mặn, lũ quét, sạt lở, bão mạnh… diễn biến ngày càng phức tạp, tác động nặng nề đến một nền kinh tế vẫn phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp và sinh kế dựa vào tài nguyên tự nhiên.

Bão Yagi là một ví dụ điển hình. Cơn bão số 3 năm 2024 đổ bộ vào Quảng Ninh rồi gây mưa lũ trên diện rộng, làm hư hỏng hơn 322.000 ngôi nhà, ảnh hưởng tới 3,6 triệu người và gây thiệt hại kinh tế hơn 88.700 tỷ đồng, mức tàn phá được đánh giá là “mạnh nhất 70 năm qua”. Đối với nhiều hộ gia đình vùng núi, vùng ven biển nghèo, thiệt hại không chỉ là vài con số thống kê: đó là đàn gia súc vừa trả xong nợ, là ruộng lúa vụ mùa đã dốc hết vốn, là ngôi nhà mới xây nhờ tiền vay ưu đãi.

Tại Lào Cai, sau Yagi, tỉnh phải di dời khẩn cấp 3.288 hộ khỏi vùng sạt lở, nhiều hộ trong số đó thuộc diện nghèo và cận nghèo. Cùng lúc, 600 phụ nữ nghèo bị ảnh hưởng nặng nề được nhận gói hỗ trợ phục hồi sinh kế trị giá 4 tỷ đồng do UN Women tài trợ khoảng 6,5 triệu đồng mỗi người. Đó chỉ là một lát cắt nhỏ cho thấy thiên tai có thể “đánh tụt” cả cộng đồng xuống dưới chuẩn nghèo chỉ sau một mùa mưa bão.

Những thiệt hại do bão Yagi năm 2024 mới chỉ là lời cảnh báo. Riêng năm 2025, các đợt mưa lũ, bão lớn liên tiếp đã khiến thiên tai “ăn mòn” thành quả giảm nghèo trên diện rộng. Tính đến ngày 24/11, thiên tai trên cả nước đã làm 409 người chết và mất tích, 727 người bị thương; hơn 3.700 ngôi nhà bị sập, trôi, thêm hơn 333.000 căn nhà bị hư hỏng, tốc mái; hàng trăm nghìn héc-ta lúa, hoa màu, thủy sản bị thiệt hại, tổng tổn thất kinh tế ước tính trên 85.000 tỷ đồng. Đối với nhiều hộ gia đình vùng núi, vùng ven biển nghèo, những con số ấy không chỉ nằm trên báo cáo thống kê, đó là đàn gia súc vừa trả xong nợ, là ruộng lúa vụ mùa đã dốc hết vốn, là ngôi nhà mới xây nhờ khoản vay ưu đãi tất cả bị cuốn trôi chỉ sau một đêm mưa lũ.

Báo cáo GIZ chỉ rõ: người nghèo ở nông thôn, những người sống dựa vào nông, lâm, ngư nghiệp là nhóm bị tổn thương nhất trước BĐKH. Khi hạn hán, xâm nhập mặn hoặc lũ quét xảy ra, họ không chỉ mất thu nhập tức thời mà còn đối mặt với nợ nần, phải bán bớt tài sản sản xuất, cho con nghỉ học, hoặc chấp nhận di cư lao động thiếu an toàn.

Với các cú sốc lặp đi lặp lại, mỗi lần tái thiết là một lần “bào mòn” khả năng chống chịu. Số tiền tích lũy ít ỏi dùng hết cho việc sửa nhà, mua giống, chăm sóc người ốm; vay nợ mới chồng lên nợ cũ. Kết quả là tái nghèo và phát sinh nghèo mới - điều mà các thống kê tổng hợp hằng năm khó phản ánh đầy đủ.

bien-doi-khi-hau-3_1765104442.webp
Nông dân đứng trên thửa ruộng nứt nẻ do hạn hán kéo dài. Tình trạng xâm nhập mặn và thiếu nước tưới đang ảnh hưởng mạnh tới sinh kế của nhiều hộ nghèo ở vùng nông thôn.

Từ ứng phó sang chủ động, tăng cường khả năng chống chịu cho người nghèo

Trong nhiều năm, hỗ trợ sau thiên tai luôn đóng vai trò thiết yếu giúp người dân sớm vượt qua khó khăn trước mắt. Tuy nhiên, trong bối cảnh tần suất và mức độ cực đoan của các hiện tượng khí hậu ngày càng tăng, cách tiếp cận này cần được bổ sung bởi những biện pháp nâng cao khả năng chống chịu dài hạn để người nghèo không chỉ “trụ vững” mà còn có thể phục hồi bền vững sau mỗi cú sốc.

Báo cáo của GIZ về giảm nghèo gắn với tăng trưởng xanh nhấn mạnh rằng, xây dựng năng lực phục hồi là thành tố quan trọng trong giảm nghèo bền vững: chính sách hỗ trợ không chỉ tập trung khắc phục hậu quả mà cần giúp người dân phòng ngừa, thích ứng và giảm thiểu rủi ro khí hậu trong tương lai.

Dựa trên các phân tích trong tài liệu, có thể nhận diện một số khoảng trống cần được chú trọng hơn trong thời gian tới:

Dữ liệu rủi ro thiên tai chưa gắn chặt với dữ liệu nghèo: Danh sách hộ nghèo, cận nghèo hiện phản ánh chủ yếu thiếu hụt thu nhập và dịch vụ xã hội cơ bản, trong khi mức độ dễ bị tổn thương do thiên tai (nhà ở nằm trong vùng lũ quét, sạt lở, bãi bồi, ven sông suối…) chưa được tích hợp đầy đủ vào quá trình lập kế hoạch giảm nghèo. Điều này khiến việc ưu tiên hỗ trợ cho các nhóm rủi ro cao chưa thật sự tối ưu.

Các công cụ bảo hiểm rủi ro khí hậu còn ở quy mô hạn chế: Bảo hiểm nông nghiệp và bảo hiểm rủi ro khí hậu đang trong quá trình hoàn thiện và mở rộng. Tuy vậy, khả năng tiếp cận của nhóm hộ nghèo còn hạn chế do chi phí, quy trình bồi thường và tâm lý e dè với sản phẩm bảo hiểm. Việc mở rộng các mô hình bảo hiểm phù hợp có thể tạo ra “lưới an toàn” quan trọng khi thiên tai xảy ra.

Đầu tư hạ tầng có khả năng chống chịu cần được tăng cường: Nhiều huyện nghèo, nơi tỷ lệ hộ nghèo và mức độ rủi ro thiên tai đều cao vẫn thiếu hạ tầng bảo vệ như đường tránh lũ, kè chống sạt lở, điểm sơ tán an toàn. Đây là những yếu tố thiết yếu giúp giảm thiểu tổn thất và bảo vệ sinh kế người dân.

Hỗ trợ sinh kế sau thiên tai cần có tầm nhìn dài hạn: Việc hỗ trợ giống, vật tư, khôi phục sản xuất sau thiên tai là rất cần thiết. Tuy nhiên, để hộ nghèo thật sự phục hồi và tiến tới ổn định lâu dài, cần bổ sung các biện pháp tư vấn chuyển đổi mô hình canh tác thích ứng, kỹ thuật nông nghiệp bền vững, định hướng thị trường và liên kết sản xuất phù hợp với biến đổi khí hậu.

Trên bình diện quốc gia, Mục tiêu SDG 1.4 đã xác định rõ yêu cầu tăng cường khả năng chống chịu và giảm thiểu rủi ro cho người nghèo trước các hiện tượng khí hậu cực đoan. Điều này cho thấy, giảm nghèo bền vững không thể tách rời khỏi quản lý rủi ro thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Nói cách khác, giảm nghèo và thích ứng khí hậu cần được xem như hai trụ cột song hành, bổ trợ lẫn nhau, nếu chỉ một cú sốc thiên tai có thể xóa sạch thành quả nhiều năm, thì việc xây dựng khả năng chống chịu của hộ nghèo chính là “lá chắn” quan trọng nhất để tiến tới giảm nghèo bền vững.

Từ “giảm nghèo” sang “giảm rủi ro nghèo đói” trong giai đoạn mới

Giai đoạn 2026-2030, khi Việt Nam xây dựng chuẩn nghèo mới và thiết kế các CTMTQG tiếp theo, câu chuyện giảm nghèo thời BĐKH sẽ cần một cách tiếp cận khác: chuyển từ “giảm tỷ lệ nghèo” thuần túy sang giảm rủi ro rơi vào nghèo đói. Một số đề xuất có thể đặt lên bàn:

Thứ nhất, tích hợp đầy đủ dữ liệu rủi ro thiên tai vào hệ thống đo lường nghèo. Danh sách hộ nghèo/cận nghèo nên gắn với bản đồ rủi ro lũ, sạt lở, ngập mặn…, từ đó ưu tiên hỗ trợ di dời an toàn, cải tạo nhà ở chống chịu, hoặc chuyển đổi sinh kế thích ứng. Đây cũng là cơ sở để bổ sung các chỉ số về môi trường và an toàn khí hậu vào chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn mới (sẽ bàn kỹ ở Kỳ 3).

Thứ hai, chuyển trọng tâm từ cứu trợ sang phục hồi và phòng ngừa. Các chương trình sau thiên tai có thể áp dụng nhiều hơn hình thức hỗ trợ tiền mặt có điều kiện, khuyến khích người nghèo chủ động lựa chọn phương án phục hồi sinh kế phù hợp - cách làm đã được áp dụng với 600 phụ nữ nghèo sau bão Yagi ở Lào Cai. Song song, mở rộng bảo hiểm cây trồng, vật nuôi, nhà ở cho hộ nghèo với sự hỗ trợ phí từ ngân sách và đối tác phát triển.

Thứ ba, đầu tư hạ tầng và dịch vụ xã hội “chống chịu khí hậu” tại huyện nghèo. Đường giao thông có cốt cao, cầu vượt lũ, hệ thống cảnh báo sớm, trường học và trạm y tế kiên cố đóng vai trò “lá chắn” giảm thiểu tổn thất, đảm bảo việc học của trẻ em không bị gián đoạn sau thiên tai. Đây chính là phần giao thoa giữa Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững với Chương trình mục tiêu ứng phó BĐKH, xây dựng nông thôn mới và Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia.

Thứ tư, nâng cao năng lực cộng đồng về quản lý rủi ro thiên tai. Không ít nơi, người dân vẫn chủ quan trước cảnh báo hoặc chưa nắm kỹ kỹ năng sơ tán, bảo vệ tài sản. Huy động hệ thống chính trị cơ sở, các hội đoàn thể, mạng lưới phụ nữ, thanh niên tham gia diễn tập, lập kế hoạch phòng chống thiên tai cấp thôn, bản sẽ giúp “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong chính câu chuyện an toàn sinh kế của mình.

Từ câu chuyện bão Yagi cho tới những trận lũ, hạn, mặn ngày một cực đoan ở đồng bằng sông Cửu Long hay miền Trung, có thể thấy rõ: mỗi cú sốc khí hậu đều là phép thử khắc nghiệt với thành quả giảm nghèo. Nếu không kịp thời “xanh hóa” chính sách giảm nghèo và gắn chặt nó với chiến lược thích ứng BĐKH, những cột mốc nghèo đa chiều 1-2% sẽ có nguy cơ chỉ là “thành tích trên giấy”, còn ngoài thực địa, vòng xoáy nghèo đói, thiên tai, tái nghèo vẫn tiếp tục kéo dài.

Thiên tai và biến đổi khí hậu cho thấy chỉ một cú sốc cũng đủ xóa sạch thành quả nhiều năm của người nghèo, nếu họ không có sinh kế bền vững và năng lực tự phục hồi. Chính vì vậy, giảm nghèo không thể chỉ dừng ở hỗ trợ sau rủi ro, mà phải chuyển sang trao quyền để người dân chủ động vượt qua và thích ứng với những biến động mới. Và đó cũng chính là trọng tâm của Kỳ 2: Từ hỗ trợ sang tạo năng lực tự vươn lên.

Diệp Anh