Khi thế giới bước vào kỷ nguyên dữ liệu, Việt Nam cũng đang dựng xây “bản đồ số” của chính mình. Ngành Đo đạc, Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ, từ bản đồ giấy sang hệ thống dữ liệu địa lý thống nhất, từ những mốc tọa độ trên đất liền đến mạng định vị vệ tinh VNGEONET - kiến tạo hạ tầng không gian số phục vụ Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số.
Từ truyền thống đo đất đến bản đồ số, dòng chảy không đứt của chủ quyền Việt Nam
Ngay từ những ngày đầu giành độc lập, công tác đo đạc - bản đồ được đặt vào vị trí chiến lược: không chỉ lập bản đồ để quản lý lãnh thổ, mà còn kiến tạo căn cước không gian của quốc gia, chuẩn hóa dữ liệu phục vụ quản lý nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Trải qua các giai đoạn kiện toàn tổ chức, đến đầu thế kỷ XXI, Cục Đo đạc và Bản đồ Việt Nam được tái lập trong hệ thống Bộ Tài nguyên và Môi trường, khẳng định vai trò cơ quan quản lý thống nhất hoạt động đo đạc - bản đồ trên phạm vi cả nước và dẫn dắt chuyển đổi từ “bản đồ giấy” sang “dữ liệu địa lý số” làm hạ tầng cho phát triển.
Bước ngoặt quản trị, công nghệ thể hiện ở việc hình thành đồng bộ bộ bản đồ nền quốc gia theo hệ quy chiếu VN-2000; chuẩn hóa ký hiệu, quy trình, tiêu chuẩn kỹ thuật; kế tiếp là lộ trình số hóa và cập nhật liên tục để bảo đảm tính đồng bộ trên toàn quốc. Từ “sản phẩm in”, ngành chuyển sang “dịch vụ dữ liệu”, tổ chức lại chuỗi giá trị từ đo đạc, xử lý, chuẩn hóa, công bố, khai thác, đưa dữ liệu địa lý vào vai trò “hạ tầng mềm” cho quy hoạch, đầu tư công, quản lý đất đai, đô thị, hạ tầng kỹ thuật, nông nghiệp, phòng chống thiên tai, thích ứng biến đổi khí hậu, và bảo đảm quốc phòng - an ninh.
Sự chuyển dịch này không chỉ do động lực công nghệ mà còn là yêu cầu pháp lý, chiến lược. Luật Đo đạc và Bản đồ năm 2018 xác lập khuôn khổ quản lý thống nhất, quy định trách nhiệm xây dựng, cập nhật, chia sẻ, khai thác dữ liệu không gian địa lý; đồng thời yêu cầu tổng kết chiến lược giai đoạn trước và xây dựng chiến lược phát triển ngành cho giai đoạn tiếp theo. Trên nền đó, các mục tiêu đến năm 2030 và tầm nhìn 2045 được định vị rõ ràng, tạo “đường băng” để ngành bước vào pha tăng tốc của chuyển đổi số.
Từ góc nhìn lịch sử, đây là “dòng chảy không đứt”: từ mốc tam giác, tuyến thủy chuẩn, bản đồ địa hình in chìm đến mạng GNSS phủ trùm; từ atlas, bản đồ hành chính in giấy đến cơ sở dữ liệu nền số, bản đồ web và dịch vụ API. Truyền thống kỹ trị – kỷ luật – chính xác của những thế hệ “người đo đất” được nối tiếp trong kỷ nguyên dữ liệu, nơi một tọa độ, một pixel, một lớp dữ liệu không còn là “kết quả cuối cùng” mà là phần tử sống của hệ sinh thái thông tin, liên tục được cập nhật, chuẩn hóa, liên thông và tái sử dụng.
Giữ hình hài đất nước bằng dữ liệu - khi bản đồ trở thành hạ tầng của Chính phủ số
Từ 2010 trở lại đây, các dự án dữ liệu nền địa lý quy mô quốc gia được triển khai theo nhiều cấp tỷ lệ, tạo khung tham chiếu không gian thống nhất cho mọi bài toán số hóa. Ngành đã hoàn thành hai dự án trọng điểm: (1) Cơ sở dữ liệu nền thông tin địa lý tỷ lệ 1/10.000 gắn với mô hình số độ cao phủ trùm cả nước; (2) Cơ sở dữ liệu nền thông tin địa lý tỷ lệ 1/2.000 và 1/5.000 cho khu đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế trọng điểm, trực tiếp phục vụ công tác quy hoạch và quản lý phát triển.
Trên lớp nền đó, mạng trạm định vị vệ tinh quốc gia VNGEONET được xây dựng và mở rộng, cung cấp dịch vụ định vị, dẫn đường độ chính xác cao cho cộng đồng. Hiện hệ thống phục vụ gần 3.000 người dùng trả phí, đóng góp ngân sách hàng chục tỷ đồng mỗi năm; đồng thời đang được hoạch định mở rộng thêm khoảng 90 trạm CORS để bao phủ tốt hơn không gian quốc gia, thúc đẩy chuyển đổi công nghệ theo hướng sử dụng dịch vụ định vị từ mạng trạm quốc gia. Cùng lúc, từ năm 2023, ngành triển khai hiện đại hóa mạng lưới độ cao quốc gia (xác định lại giá trị gốc độ cao, gốc độ sâu; đo đạc, bổ sung - khôi phục mốc; xây dựng 99 mốc độ cao thế kỷ; bình sai tổng thể), tạo nền tảng tính cao độ thống nhất trên phạm vi cả nước.
Song song tọa độ và độ cao, mạng lưới trọng lực và mô hình geoid quốc gia được hoàn thiện, hướng tới hệ quy chiếu - hệ tọa độ không gian thống nhất cho đất liền và biển. Đây là điều kiện tiên quyết để bản đồ trở thành hạ tầng kỹ thuật số dùng chung cho các bộ, ngành, địa phương, từ quản lý đất đai, quy hoạch, giao thông, năng lượng, nông nghiệp, môi trường đến cứu hộ cứu nạn và quốc phòng - an ninh.
Nhịp chuyển đổi số còn thể hiện ở cơ chế - chính sách. Trên cơ sở tổng kết chiến lược giai đoạn trước, ngành tham mưu xây dựng Chiến lược phát triển ngành đo đạc và bản đồ Việt Nam và xây dựng hạ tầng dữ liệu không gian địa lý quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, được Chính phủ ban hành tại Nghị quyết số 40/NQ-CP ngày 27/3/2023, văn kiện then chốt định hướng hạ tầng dữ liệu không gian như “hạ tầng của hạ tầng số”, nhấn mạnh nhiệm vụ hoàn thiện thể chế, chuẩn hóa dữ liệu, xây dựng - vận hành NSDI, kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa trung ương và địa phương.
Tài liệu đặt ra mục tiêu rất rõ: hoàn thiện thể chế, chính sách; xây dựng, cập nhật cơ sở dữ liệu nền địa lý quốc gia và hệ thống bản đồ địa hình quốc gia đồng bộ, thống nhất trên đất liền, vùng biển và hải đảo; xây dựng - hoàn thiện hạ tầng đo đạc gồm mạng tọa độ, VNGEONET, độ cao, trọng lực và mô hình geoid, để thiết lập hệ quy chiếu, hệ tọa độ không gian quốc gia thống nhất.
Một chỉ dấu định lượng quan trọng là mục tiêu đảm bảo 100% dữ liệu không gian địa lý kết nối, chia sẻ trên toàn quốc, phục vụ cung cấp thông tin và dịch vụ công cho tổ chức, cá nhân; đồng thời tham gia, kết nối vào mạng lưới hạ tầng dữ liệu không gian địa lý khu vực. Đây là thước đo của một nền quản trị số “nhìn thấy bằng bản đồ”, giúp dữ liệu di chuyển mạch lạc giữa các cơ quan và tới người dân - doanh nghiệp.
Từ góc nhìn ứng dụng, dữ liệu nền địa lý và dịch vụ định vị chính xác cao là “lõi vận hành” của Chính phủ số: địa chỉ số gắn với không gian địa lý; bản đồ số hành chính; quản lý tài sản công theo tọa độ; giám sát đầu tư công bằng bản đồ; cấp phép, thanh tra trực tuyến dựa trên hồ sơ không gian; bản đồ chuyên đề phục vụ điều hành y tế, giáo dục, an sinh. Ở cấp địa phương, công bố dữ liệu nền mở giúp doanh nghiệp phát triển sản phẩm số trong logistics, bất động sản, nông nghiệp chính xác, giao thông thông minh, du lịch - văn hóa.
Quan trọng hơn, khi bản đồ trở thành cơ sở dữ liệu sống, chuẩn hóa, liên thông, bảo đảm chất lượng là chìa khóa. Chu trình đo, xử lý, kiểm định, công bố, phản hồi, cập nhật tạo “vòng lặp tin cậy” cho dữ liệu địa lý: mỗi lớp dữ liệu (thửa đất, công trình, rừng, mặt nước, hạ tầng) đều có “dấu tích số” về nguồn gốc, thời điểm, độ chính xác và phiên bản. Đó là điều kiện để dữ liệu được dùng nhiều lần, đúng mục đích, đúng ngữ cảnh.
Hướng tới không gian mở của tương lai, tầm nhìn 2045 và sứ mệnh người làm bản đồ Việt Nam
Mục tiêu đến 2030 được xác định rõ, hoàn thiện thể chế, chính sách, dữ liệu nền hệ thống bản đồ địa hình quốc gia; cùng lúc xây dựng, hoàn thiện hạ tầng đo đạc gồm mạng tọa độ, VNGEONET, mạng độ cao, trọng lực và mô hình geoid, để thiết lập hệ quy chiếu, hệ tọa độ không gian quốc gia thống nhất trên đất liền và trên biển.
Về tầm nhìn 2045, ngành hướng đến trở thành ngành điều tra cơ bản hiện đại, ngang tầm các nước phát triển, làm chủ khoảng 80% công nghệ tiên tiến, phát triển hạ tầng dữ liệu không gian địa lý quốc gia như một hạ tầng chiến lược, có khả năng tham gia, kết nối sâu với mạng lưới khu vực và toàn cầu, phục vụ Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số.
Để hiện thực hóa tầm nhìn, các mũi nhọn công nghệ được ưu tiên: chuẩn mở, tích hợp, chia sẻ dữ liệu theo kiến trúc NSDI; phát triển bản đồ số 4D (không gian – thời gian) phục vụ cảnh báo thiên tai, biến đổi khí hậu và quy hoạch vùng; mô hình geoid chính xác cao cho đo cao hiện đại; AI và học máy trong nhận dạng, phân loại đối tượng địa lý từ ảnh vệ tinh, UAV; LiDAR mặt đất, hàng không để lập mô hình số bề mặt/bề địa hình ở tỷ lệ lớn; hạ tầng dữ liệu địa lý đô thị hướng tới Digital Twin cho các thành phố thông minh.
Một trụ cột khác là con người. Ngoài lực lượng kỹ sư giàu kinh nghiệm hiện trường, ngành cần đội ngũ kỹ sư dữ liệu địa lý hiểu sâu trắc địa, bản đồ lẫn khoa học dữ liệu, phần mềm và an toàn thông tin. Tổ chức sản xuất cũng chuyển dịch: từ quy trình tuyến tính sang vận hành dữ liệu (DataOps) theo vòng đời; năng lực phát triển, vận hành nền tảng dữ liệu (platform engineering) trở thành yêu cầu cốt lõi để bảo đảm sẵn sàng, mở rộng và an toàn, riêng tư dữ liệu.
Ở bình diện hợp tác quốc tế, tài liệu nhấn mạnh việc tham gia, kết nối mạng lưới dữ liệu không gian địa lý khu vực và toàn cầu, tiếp nối truyền thống hợp tác, đào tạo, từ giai đoạn hợp tác xây dựng mạng thiên văn trắc địa, thủy chuẩn và đào tạo hàng trăm cán bộ ở nước ngoài đến nay chủ động hội nhập sâu với chuẩn mực quốc tế. Đây là điều kiện để dữ liệu địa lý Việt Nam tương thích liên thông với chuẩn khu vực, góp phần nâng vị thế quốc gia trong chuỗi giá trị dữ liệu toàn cầu.
Kinh nghiệm chính sách cũng là “vốn liếng” của ngành. Việc xây dựng và thực thi Chiến lược phát triển ngành đến năm 2020 (Quyết định 33/2008/QĐ-TTg), đặt trọng tâm ở GPS, viễn thám quang học và radar, LiDAR, GIS và hạ tầng dữ liệu không gian, đã tạo nền cho bước chuyển sang mô hình quản trị dữ liệu mở – liên thông mà hiện nay ngành đang đẩy mạnh.
NSDI (nền tảng hạ tầng kỹ thuật, công nghệ và dữ liệu) trong giai đoạn tới không chỉ là “kho” mà là hạ tầng vận hành: lớp định danh, phân quyền, nhật ký để bảo đảm trách nhiệm giải trình; cơ chế dịch vụ dữ liệu (data services) phục vụ cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và người dân; năng lực giám sát, đo lường chất lượng theo thời gian thực; cùng cơ chế tài chính bền vững (phí dịch vụ, đặt hàng công - tư). Ở tầm quốc gia, NSDI là “bộ khung” hợp nhất dữ liệu không gian của các cơ sở dữ liệu chuyên ngành (đất đai, dân cư, doanh nghiệp, giao thông, năng lượng, môi trường…); ở tầm địa phương, NSDI là “bộ nối” giúp dữ liệu đi, đến đúng chỗ, đúng lúc.
Dĩ nhiên, để “giữ hình đất nước trong không gian số”, cần đối diện thẳng thắn với thách thức: tính đúng - đủ - kịp thời trong bối cảnh không gian đô thị, sản xuất biến động nhanh; đồng bộ thể chế về tiêu chuẩn, bản quyền, chia sẻ, đặc biệt với dữ liệu nhạy cảm; nguồn lực tài chính cho đo đạc tỷ lệ lớn, ảnh vệ tinh/ảnh LiDAR độ phân giải cao, hiện đại hóa mạng trạm; an ninh, an toàn dữ liệu trước rủi ro tấn công mạng; và phát triển nhân lực đủ sâu cả kỹ thuật đo đạc lẫn công nghệ dữ liệu.
Trong chuỗi giải pháp, VNGEONET tiếp tục là “hệ thần kinh định vị” của quốc gia số. Việc mở rộng thêm khoảng 90 trạm CORS và nâng cấp dịch vụ thời gian thực RTK/VRS sẽ là chìa khóa lan tỏa công nghệ tới cộng đồng người dùng lớn hơn, từ đơn vị đo đạc, xây dựng, hạ tầng đến nông nghiệp chính xác, logistics, phương tiện tự hành. Đồng thời, chương trình hiện đại hóa mạng độ cao từ 2023 với các mốc độ cao thế kỷ và bình sai tổng thể sẽ tạo “khung cao độ quốc gia” vững chắc cho tính toán – tích hợp dữ liệu độ cao, đảm bảo thống nhất từ đất liền đến biển đảo.
Ở tầng sâu hơn, “giữ hình đất nước” còn là giữ tính trung thực của dữ liệu. Mỗi mảnh bản đồ, mỗi lớp dữ liệu phải trung thành với thực địa; mọi chỉnh sửa đều có dấu vết; mọi phiên bản đều có lịch sử. Chính thái độ nghề nghiệp ấy, đo bằng milimet, bình sai bằng giây, kiểm tra bằng lặp là “đạo đức dữ liệu” của ngành hôm nay. Nó nối dài truyền thống “đo đất để giữ trời”, đem giá trị thầm lặng của thế hệ đi trước vào kỷ nguyên mở, nơi bản đồ không chỉ “nói” về đất, mà còn vận hành một quốc gia số.
Khi nhìn lại, ta thấy một đường liền mạch: từ chuẩn hóa pháp lý - kỹ thuật, hoàn thiện dữ liệu nền, vận hành hạ tầng định vị, đến chiến lược 2030 - 2045 hướng tới một ngành điều tra cơ bản hiện đại, làm chủ công nghệ; từ kết nối liên thông trong nước đến kết nối khu vực, toàn cầu. Tất cả hội tụ về một ý nghĩa: giữ hình đất nước trong không gian số, không chỉ để nhìn, mà để quản trị và phát triển.
Đó cũng là sứ mệnh của những người làm đo đạc, bản đồ và thông tin địa lý Việt Nam hôm nay: bền bỉ như đường thủy chuẩn, chính xác như tọa độ GNSS, và cởi mở như không gian số, để đường biên, đảo xa, sông núi, cánh rừng, thửa ruộng, công trình hạ tầng… đều hiện diện đúng - đủ - sống động trong thế giới dữ liệu, phụng sự Nhà nước, doanh nghiệp và mỗi người dân.