Mối liên hệ giữa mật độ vi tảo phù du với chất lượng nước trong ruộng lúa ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang

Thứ ba, 21/12/2021, 14:22 (GMT+7)
logo Từ các kết quả nghiên cứu cho thấy, giữa vi tảo phù du với các yếu tố môi trường có mối quan hệ mật thiết với nhau. Vi tảo là nguồn hoàn trả dưỡng chất cho đất trồng lúa. Dựa trên kết quả phân tích hồi quy tuyến cho thấy nhiệt độ, pH, nồng độ N-NO3, N-NH4 và DO trong nước ruộng lúa đều có khả năng dự đoán mật độ tảo, trong đó nồng độ N-NH4 và DO là hai yếu tố giúp dự đoán mật độ của ba ngành tảo lục, khuê và vi khuẩn lam (p < 0,01).

Đặt vấn đề

Vi tảo là những loài tảo có kích thước hiển vi, sống trôi nổi hiếu khí, có sắc tố diệp lục để quang hợp. Trong ruộng lúa thường xuất hiện bốn ngành như tảo lục, tảo khuê, tảo mắt và vi khuẩn lam và thường phát triển ngay trong lớp nước hay đất mặt. Nhiều nghiên cứu cho thấy, các yếu tố môi trường như nhiệt độ, độ đục, pH, chất dinh dưỡng đều có khả năng chi phối đến mật độ tảo [12]. Mật độ tảo lục tương quan thuận với nồng độ amoni trong nước (r = 0,948), tảo mắt tương quan thuận với tổng chất rắn hòa tan và nồng độ chì [11], tảo khuê tương quan thuận với pH và nồng độ DO [15].

Khi điều kiện môi trường thuận lợi tạo điều kiện cho các ngành tảo tăng trưởng nghĩa là giữa tảo và môi trường nước có mối liên hệ mật thiết với nhau. Vì thế, nghiên cứu này được thực hiện nhằm thiết lập phương trình hồi quy tuyến tính có khả năng dự đoán sự gia tăng mật độ tảo trong ruộng lúa thông qua các yếu tố môi trường nước.

Phương pháp nghiên cứu

Thời gian và địa điểm: Nghiên cứu được thực hiện ở ba vụ lúa như thu đông 2016 (tháng 8 - 12/2016), đông xuân 2016 - 2017 (tháng 12/2016 đến tháng 3/2017) và hè thu 2017 (tháng 4 - 8/2017) tại ấp Long Hòa 1, xã Long Kiến, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Các mẫu nước và tảo được phân tích tại Phòng Thí nghiệm Khối môi trường, Trường Đại học An Giang.

Mô tả ruộng nghiên cứu: Chọn ba ruộng thí nghiệm có các điều kiện canh tác giống nhau về mật độ sạ, giống lúa, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), chế độ bón phân, quản lý nước do có cùng một hộ canh tác lúa nhưng ở ba vị trí khác nhau. Trước khi gieo sạ, nông hộ không đốt đồng mà chỉ cày xới gốc rạ. Các giống lúa AGPPS 144, IR 50404 và OM 4218 được trồng vào vụ thu đông, đông xuân và hè thu với mật độ sạ tương ứng là 300, 270 và 270 kg/ha. Phân hóa học như: Urê, super lân, KCl, DAP và NPK được bón cho cây lúa theo từng đợt được trình bày ở Bảng 1.

Bảng 1. Khối lượng phân nguyên chất và công thức bón cho cây lúa thí nghiệm
Mối liên hệ giữa mật độ vi tảo phù du với chất lượng nước trong ruộng lúa ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang

Thời điểm và tần suất thu mẫu: Trước khi thu mẫu trên ruộng lúa, các điều kiện thời tiết, hiện tượng xảy ra trên ruộng (màu nước, cây lúa,…) được quan sát và ghi nhận, đồng thời phỏng vấn trực tiếp nông hộ về loại thuốc BVTV đã phun xịt trên cây lúa để cung cấp thông tin góp phần lý giải và làm sáng tỏ kết quả phân tích.

Ở ruộng lúa, mẫu tảo được thu sau khi bón phân 1 ngày vào buổi sáng từ 6 đến 10 giờ, với tần suất 3 lần/đợt, 6 ngày/đợt và 4 đợt/vụ. Mỗi vụ lúa thu bốn đợt như sau: Đợt 1 (đầu giai đoạn đẻ nhánh), đợt 2 (cuối đẻ nhánh), đợt 3 (làm đòng) và đợt 4 (chín). Ở kênh, chỉ thu 01 lần/đợt, trùng với lần thứ nhất của mỗi đợt thu mẫu tảo trong ruộng lúa.

Phương pháp thu và phân tích mẫu

Thu mẫu định lượng tảo: Sử dụng ca nhựa múc nước ở nhiều điểm trong ruộng lúa (Hình 1) cho vào xô nhựa 16 L trộn thành mẫu chung, lọc qua lưới thực vật phù du (TVPD) có đường kính mắt lưới là 27 ìm, thể tích nước lọc qua lưới khoảng 50 L và thể tích sau khi lọc là 110 mL. Tất cả các mẫu sau thu đều được cố định bằng formol 4% và ghi nhận tổng thể tích nước sau khi lọc qua lưới.

Hình 1. Sơ đồ vị trí thu mẫu vi tảo trong ruộng lúa và kênh Xà Mách

Mối liên hệ giữa mật độ vi tảo phù du với chất lượng nước trong ruộng lúa ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang

Thu mẫu nước: Mẫu nước được thu tương tự như thu mẫu định lượng tảo nhưng nước sau khi thu không lọc qua lưới TVPD và cố định bằng formol 4% thay vào đó là mẫu được trữ lạnh ở 4oC. Mẫu nước có thể trữ đông và phân tích trong 7 ngày. Đồng thời tiến hành đo đạc mực nước ở 15 điểm trên mỗi ruộng lúa. Nhiệt độ, pH và DO được đo bằng máy pH điện cực thủy tinh và máy DO tại ruộng lúa. Đạm N-NH4 (amoni), N-NO3 (nitrat) và P-PO4 (photphat) được phân tích tương ứng theo phương pháp chuẩn độ, trắc phổ dùng axit sulfosalicylic và trắc quang màu xanh molipden [1].

Phương pháp định lượng vi tảo: Số lượng cá thể tảo được đếm trong phạm vi 100 ô/lần phân bố đều trong buồng đếm phiêu sinh Sedgewick - Rafter, được đếm lặp lại 2 lần và tính toán theo phương pháp của [2] như sau:

 Mối liên hệ giữa mật độ vi tảo phù du với chất lượng nước trong ruộng lúa ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang            (1)

Trong đó, D: số lượng cá thể có trong 1 mL (cá thể/mL); T: số lượng cá thể đếm được trong 100 ô đếm; N: số ô đếm (N = 100); A: diện tích một ô đếm (1 mm2), 1.000: tổng số ô của buồng đếm; V1: thể tích mẫu thu ở ruộng/kênh (mL); V2: thể tích mẫu cô đặc (mL).

Thống kê số liệu: Phân tích phương sai Anova và kiểm định Duncan đặc tính lý - hóa nước giữa ba vụ; mật độ tảo giữa bốn đợt ở cùng một vụ. Xác định phương trình hồi đa biến giữa mật độ tảo (Y) với các đặc tính lý - hóa nước (X1... Xn) theo phương pháp Enter và kiểm định các giá trị quan sát lệ thuộc lẫn nhau bằng đại lượng Durbin-Watson.

Kết quả và thảo luận

Đặc tính lý và hóa học nước trong ruộng lúa qua ba vụ khảo sát: Qua ba vụ khảo sát cho thấy mực nước ruộng bình quân ở vụ hè thu 2017 (3,98±0,66 cm) cao hơn so với vụ thu đông 2016 (3,79±0,21 cm) và đông xuân 2016 - 2017 (2,64±0,26 cm) từ 0,19 đến 1,34 cm. Đồng thời, nhiệt độ nước ở vụ hè thu cũng cao khác biệt có ý nghĩa hơn so với hai vụ còn lại (p < 0,05) từ 0,18 đến 0,38oC (Bảng 2).

Bảng 2. Đặc tính lý - hóa học nước trong ruộng lúa qua ba vụ canh tác
Mối liên hệ giữa mật độ vi tảo phù du với chất lượng nước trong ruộng lúa ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang

Ghi chú: TĐ: thu đông, ĐX: đông xuân, HT: hè thu; Số mẫu của mỗi vụ là 36; Trong cùng một cột những số có chữ theo sau giống nhau thì không khác biệt có ý nghĩa thống kê, ns: khác biệt không có ý nghĩa, *: khác biệt ở mức ý nghĩa 0,05, **: khác biệt ở mức ý nghĩa 0,01 theo kiểm định Duncan.

Nhiệt độ nước ở vụ hè thu (Hình 2) vượt mức thích hợp cho tảo phát triển (15-30oC) nhưng chưa vượt ngưỡng 35oC nên chưa gây chết tảo mà chỉ có khả năng gây ức chế tảo. Theo [16], nhiệt độ thích hợp cho thực vật thủy sinh (trong đó có tảo) là từ 15-30oC và theo [14], khi nhiệt độ trên 35oC gây chết nhiều loài tảo.

Trị số pH có xu hướng giảm dần từ đợt 1 đến đợt 2, 3 và 4 (Hình 3) là do sau mỗi đợt bón phân, cây lúa bắt đầu gia tăng chiều cao và số chồi dẫn đến diện tích bề mặt nước tiếp xúc với ánh sáng mặt trời giảm dần nên lượng ánh sáng mà mặt ruộng nhận được thấp. Do đó, quá trình quang hợp của tảo bị hạn chế, lượng CO2 tiêu thụ giảm dẫn đến pH nước giảm và bình quân pH nước ở mỗi đợt của cả ba vụ lúa đều dưới 7.

Hình 2. Nhiệt độ nước trong ruộng                  Hình 3. Trị số pH nước ruộng
Mối liên hệ giữa mật độ vi tảo phù du với chất lượng nước trong ruộng lúa ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang

Nồng độ N-NH4 và N-NO3 trong nước ruộng ở một vài thời điểm (Hình 4 và Hình 5) vượt mức thích hợp cho tảo phát triển (> 1 mg/L) nhưng chưa gây độc cho tảo. Theo [16], nồng độ amoni và nitrat thích hợp cho tảo phát triển là từ 0,1-1 mg/L và theo Jeanfils et al. (1993) trích dẫn bởi [8] nitrat không gây độc cho tảo và tảo có thể chịu được nồng độ 100 mM.

Hình 4. Nồng độ N-NH4 trong nước ruộng   Hình 5. Nồng độ N-NO3 trong nước ruộng

Mối liên hệ giữa mật độ vi tảo phù du với chất lượng nước trong ruộng lúa ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang

Hình 5. Nồng độ N-NO3 trong nước ruộng    Hình 7. Nồng độ DO trong nước ruộng

Mối liên hệ giữa mật độ vi tảo phù du với chất lượng nước trong ruộng lúa ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang

Nồng độ photphat vào 2 ngày sau bón phân ở mỗi đợt đều vượt mức thích hợp cho tảo phát triển (trên 0,2 mg/L) nhưng bình quân của mỗi đợt ở mỗi vụ (Hình 6) đều chưa vượt ngưỡng gây ức chế. Theo [2], tảo sinh trưởng và phát triển tốt khi nồng độ photphat từ 0,005-0,2 mg/L và theo [16] khi vượt 18 mg/L có khả năng gây ức chế tảo.

Tương tự như pH nước, nồng độ DO có xu hướng giảm dần từ đợt 1 đến đợt 2, 3 và 4 (Hình 7) là do hoạt động quang hợp của tảo bị giảm khi cây lúa càng tăng trưởng. Theo [3], quá trình quang hợp của tảo ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng nước ruộng như: làm thay đổi độ pH, DO và cacbonic. Sự thay đổi nồng độ cacbonic ảnh hưởng đến pH dẫn đến độ pH tăng khi cacbonic giảm. Nồng độ DO trong nước ruộng giữa ba vụ khảo sát khác biệt không có ý nghĩa thống kê (Bảng 2). Tuy nồng độ DO chịu tác động bởi mùa vụ canh tác nhưng lượng oxy hòa tan cung cấp cho ruộng lúa chủ yếu là từ quá trình quang hợp của tảo, cây lúa,... Theo [2], oxy trong môi trường nước chủ yếu là từ quá trình quang hợp của thực vật thủy sinh. Nồng độ DO trong nước kênh bình quân vào vụ thu đông, đông xuân và hè thu tương ứng với 4,24; 3,38; và 2,75 mgO2/L, một lần nữa chứng tỏ tảo quang hợp cung cấp oxy cho ruộng lúa.

Sự biến đổi mật độ tảo trong ruộng lúa: Vào vụ thu đông, tổng mật độ tảo phù du xuất hiện theo các thời kỳ phát triển của cây lúa có sự khác biệt có ý nghĩa (p < 0,05) (Bảng 3). Tổng mật độ tảo xuất hiện ở đầu giai đoạn đẻ nhánh (đợt 1) cao khác biệt có ý nghĩa so với ở cuối đẻ nhánh (đợt 2) (p < 0,01) vì ngành tảo khuê và tảo lục chiếm ưu thế ở giai đoạn này và đóng góp 81% tổng mật độ tảo (tương ứng chiếm 52,5% và 28,5%). Điều này phù hợp vì theo [13], tảo khuê và tảo lục đơn bào chiếm ưu thế trong ruộng lúa từ khi trồng đến khi cây lúa bắt đầu đẻ nhánh. Khi thu mẫu tảo ở đợt 1, những váng tảo màu nâu vàng xuất hiện trên mặt ruộng.

Bảng 3. Mật độ các ngành tảo (cá thể/L) trong ruộng lúa qua ba vụ canh tác
Mối liên hệ giữa mật độ vi tảo phù du với chất lượng nước trong ruộng lúa ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang

Ghi chú: Đ1: đợt 1, Đ2: đợt 2, Đ3: đợt 3, Đ4: đợt 4; F: giá trị F; số mẫu mỗi đợt là 9; trong cùng một cột các chữ số theo sau khác nhau thì khác biệt ở mức ý nghĩa, *: khác biệt ở mức ý nghĩa 0,05, **: khác biệt ở mức ý nghĩa 0,01 ,ns: không khác biệt ở mức ý nghĩa 0,05 theo kiểm định Duncan.

Tổng mật độ tảo ở giai đoạn làm đòng (đợt 3) thấp hơn so với ở đầu đẻ nhánh (đợt 1) mặc dù lượng phân đạm và lân bón cho cây lúa ở đợt 3 cao hơn so với đợt 1 (Bảng 1) là do ở đợt 3 số chồi và chiều cao cây lúa tăng tới mức tối đa nên độ che rợp của tán lá lúa trên mặt ruộng dày đặc. Khi cây lúa càng phát triển thì lượng ánh sáng chiếu xuống ruộng càng bị hạn chế, ảnh hưởng đến tốc độ quang hợp, tảo gia tăng mật độ ít. Khi bón phân cho cây lúa, sau 2 đến 3 giờ đã xuất hiện mưa, phân bón cùng với nước mưa tràn xuống các mương nên lượng phân thực chất tồn đọng trong ruộng rất thấp. Theo kết quả tính toán số liệu thu thập từ [9], lưu lượng mưa bình quân vào đợt 3 (tháng 10/2016) là 320 mm/tháng, ở đợt 1 và đợt 2 (tháng 8/2016) là 136 mm/tháng. Tổng mật độ tảo ở đợt 4 khác biệt không có ý nghĩa so với ba đợt còn lại (Bảng 3) là do mưa xuất hiện liên tục và kéo dài ở đợt 4, độ che rợp của tán lá lúa trên mặt ruộng dày đặc, lượng ánh sáng chiếu xuống ruộng thưa thớt nhưng đây lại là điều kiện thích hợp giúp tảo mắt sinh trưởng nên số lượng loài tảo mắt cao (14.542 cá thể/L).

Vào vụ đông xuân, mật độ tảo ở đợt 1 cao khác biệt có ý nghĩa so với đợt 3 và đợt 4, trong đó mật độ tảo khuê đóng góp 89,2% tổng mật độ (Bảng 3). Kết quả này tương đồng với vụ thu đông, mật độ tảo khuê đóng góp tỷ lệ cao nhất. Do số loài tảo khuê và tảo lục chiếm ưu thế ở đợt 1 nên gia tăng mật số rất nhanh. Mặt khác, lượng phân đạm và lân bón cây lúa ở đợt này tương đối cao (Bảng 1), đây là nguồn dinh dưỡng thiết yếu cho tảo khuê dị dưỡng thuộc lớp tảo lông chim, điển hình đã xuất hiện 26 loài tảo thuộc hai giống Navicula và Nitzschia. Mật độ ngành tảo lục ở đợt 1 cũng cao nhất là vì thời tiết trong vụ đông xuân nắng nhiều, ít mưa và môi trường nước trong ruộng rất tĩnh nên rất thích hợp cho tảo lục phát triển, điển hình đã xuất hiện 35 loài tảo lục. Vì tảo lục phát triển mạnh vào mùa xuân và mùa thu [16] và phân bố chủ yếu ở các thủy vực tĩnh hoặc dòng chảy yếu như ruộng lúa [7].

Tuy nhiên, tổng mật độ tảo ở đợt 3 và đợt 4 tương đương nhau về mặt thống kê (Bảng 3) là vì cây lúa ở đợt 3 được bón phân đạm và lân (3 kgN và 1,72 kgP2O5), trong khi đó ở đợt 4 chỉ bón phân đạm (2,3 kgN/1.000 m2); cây lúa ở đợt 3 đang ở giai đoạn làm đòng nên tập trung hút nhiều dinh dưỡng đạm và lân (Võ Tòng Xuân và ctv., 1995 trích dẫn bởi [10]) để nuôi đòng [10] dẫn đến lượng nitơ và photpho trong nước giảm mạnh, tảo hấp thụ ít. Hơn nữa, nông dân đã phun xịt thuốc trừ sâu trước khi bón phân đợt 3 một ngày nên có khả năng giết chết nhiều loài tảo, trong đó, hoạt chất chlorfluazuron trong thuốc Confitin 75EC rất độc đối với sinh vật thủy sinh [6], hoạt chất chlorpyrifos ethyl và cypermethrin trong thuốc Tungcydan 30EC có độ độc cao với thủy sinh vật [5]. Chính vì thế mật độ tảo ở đợt 3 giảm mạnh so với đợt 1 và đợt 2.

Vào vụ hè thu, tổng mật độ tảo phù du giữa các đợt khảo sát khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Mật độ tảo ở đợt 1 cao khác biệt so với đợt 3 và đợt 4 (Bảng 3) là do có sự đóng góp của 34,4% mật độ ngành VKL (7.633 cá thể/L) mà trong hai vụ lúa trước tỷ lệ đóng góp của VKL rất thấp. Trong đợt này, có sự xuất hiện của 25 loài VKL, đặc biệt loài Anabaena oscillarioides xuất hiện với mật độ cao - hỗ trợ đắc lực trong việc cố định đạm từ khí trời vào ruộng lúa. Bước sang giai đoạn cuối đẻ nhánh (đợt 2), mật độ ngành tảo khuê và tảo lục giảm xuống, thay vào đó là mật độ tảo mắt và VKL tăng lên. Tỷ lệ VKL chiếm 77,3% tổng mật độ ở đợt 2 nhưng VKL Anabaena oscillarioides chỉ xuất hiện nhiều vào 2 NSB nhưng đến 4 và 6 NSB xuất hiện rất ít do vậy lượng đạm sinh học được cố định vào đất ở đợt 2 có thể nói là ít so với ở đợt 1. Mật độ tảo ở đợt 3 và đợt 4 tương đương nhau về mặt thống kê (Bảng 3) bởi vì việc phun xịt thuốc BVTV để phòng và trừ các dịch và bệnh hại trên cây lúa đây là nguyên nhân dẫn đến mật độ tảo ở đợt 3 giảm mạnh so với ở đợt 1 và đợt 2.

Mật độ tảo ở đợt 4 của cả ba vụ lúa đều thấp vì độ che rợp của tán lá lúa trên mặt ruộng dày đặc, lượng phân bón cho cây lúa rất ít, trị số pH nước ruộng (Bảng 2) giảm đột ngột, tảo không thích ứng kịp thời nên bị ức chế và không thể sinh sản. Do vậy, quá trình tạo oxy từ quang hợp của tảo diễn ra chậm nên nồng độ DO ở thời điểm này (bình quân 3,39 mg/L, Hình 7) thấp nhất.

Mối liên hệ giữa mật độ tảo phù du với chất lượng nước ruộng lúa

Kết quả phân tích hồi quy đa biến giữa mật độ tảo với các yếu tố môi trường nước được trình bày ở Bảng 4.

Bảng 4. Tương quan hồi quy tuyến tính giữa mật độ tảo với các yếu tố môi trường nước
Mối liên hệ giữa mật độ vi tảo phù du với chất lượng nước trong ruộng lúa ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang

Theo Bảng 4, phương trình hồi quy dự đoán tổng mật độ các ngành tảo (Dtao, cá thể/L) phụ thuộc vào nhiệt độ, pH, nồng độ nitrat, amoni và DO trong nước có dạng:

Mối liên hệ giữa mật độ vi tảo phù du với chất lượng nước trong ruộng lúa ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang

với R2 = 0,677    (2)

Phương trình (2) cho thấy, tổng mật độ các ngành tảo có tương quan thuận với pH nước, nồng độ nitrat và DO là vì tảo có khả năng làm thay đổi độ pH, DO và CO2. Theo [4], quá trình quang hợp của thực vật thủy sinh hấp thụ cacbon làm pH tăng dần. Theo [2], oxy trong môi trường nước chủ yếu là sản phẩm của quá trình quang hợp của thực vật thủy sinh. Tuy nhiên, tổng mật độ các ngành tảo lại tương quan nghịch với nhiệt độ và nồng độ amoni vì nhiệt độ thích hợp cho tảo là từ 15-30oC, khi trên 35oC gây chết nhiều loài hay làm tổn hại tế bào, ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và sinh sản.

Từ phương trình (2) có thể hiểu rằng khi độ pH tăng lên 1 đơn vị thì tổng mật độ các ngành tảo tăng lên 53.456 cá thể/L hay khi nhiệt độ nước tăng lên 1 đơn vị thì tổng mật độ các ngành tảo giảm đi 11.195 cá thể/L. Hệ số xác định R2 = 0,677 chỉ ra rằng 67,7% tổng mật độ các ngành tảo phụ thuộc và được giải thích bởi năm yếu tố.

Việc dự đoán mật độ tảo khuê, VKL, tảo lục và tảo mắt cũng phụ thuộc vào năm yếu tố này. Phương trình hồi quy có dạng như sau:

Mối liên hệ giữa mật độ vi tảo phù du với chất lượng nước trong ruộng lúa ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang

Phương trình (3) cho thấy, mật độ tảo khuê tương quan thuận với nồng độ nitrat nhưng tương quan nghịch với nồng độ amoni. Kết quả này phù hợp với [2], sự phát triển của tảo khuê tương quan thuận với nồng độ nitrat và phù hợp với [15] mật độ tảo khuê tương quan thuận với pH nước và nồng độ DO trong nước.

Ngoài ra, không tìm thấy mối tương quan giữa mật độ tảo với nồng độ photphat (từ phương trình 2 đến 6) là vì tốc độ hấp thụ photpho của tảo bị ảnh hưởng bởi tình trạng tế bào và một số yếu tố môi trường, chẳng hạn ánh sáng, pH, nhiệt độ, độ mặn hay sức mạnh của ion trong môi trường và các ion có sẵn như K+, Mg2+ và Na+ (Cembella et al., 1982; Corell, 1998; Falkner et al., 1980; Rigby et al., 1980; Seale et al., 1987 trích dẫn bởi [8]). Những chất vô cơ cần thiết cho sự phát triển của tảo tồn tại trong nước với nồng độ khác nhau, biến động liên tục và tỷ lệ giữa chúng cũng thay đổi, do vậy tỷ lệ giữa các ngành tảo cũng thay đổi theo thời gian.

Kết luận

Qua ba vụ canh tác cho thấy, mật độ tảo khuê và tảo lục chiếm ưu thế trong nước ruộng lúa vào đầu thời kỳ cây lúa đẻ nhánh nhưng vụ đông xuân đóng góp tổng mật độ các ngành tảo nhiều hơn so với hai vụ hè thu và thu đông, các đặc trưng về mùa vụ, việc phun xịt thuốc bảo vệ thực vật và lượng phân bón đều ảnh hưởng đến mật độ tảo.

Các yếu tố môi trường nước (nhiệt độ, pH), dinh dưỡng (N-NH4, N-NO3) và oxy hòa tan đều có khả năng dự đoán mật độ tảo trong ruộng lúa, trong đó oxy hòa tan là yếu tố duy nhất có khả năng dự đoán mật độ của ba ngành tảo lục, tảo khuê và vi khuẩn lam.

Tài liệu tham khảo

1. APHA (American Public Health Association; American Water Works Association; Water Environment Federation). 1998. Standard methods for the examination of waters and wastewaters. APHA AWWA-WEF, Washington, DC;

2. Boyd C. E. and Tucker C. S. 1992. Water quality and pond soil analyses for aquaculture. Alabama Agricultural Experiment Station, Auburn University, United States;

3. Boyd C. E. 2014. Water quality - An introduction. Second edition. Springer International Publishing AG Switzerland;

4. Boyd E.C. 1990. Water quality for pond aquaculture. Alabama Agricultural Experiment Station Auburn University;

5. Công ty Cổ phần Sản xuất - Thương mại - Dịch vụ Ngọc Tùng. 2011. Thuốc trừ sâu, rầy Tungcydan 30EC; 55EC; 60EC. Địa chỉ http://www.ngoctung.com/vn/product/detail/ tungcydan-30ec;-55ec;-60ec-66.html, ngày truy cập 15/10/2017;

6. Công ty Syngenta Thụy Sĩ. 2013. Thông tin an toàn sản phẩm Chess 50WG. Địa chỉ https://www.syngenta.com.vn/sites/g/files/zhg531/f/thong20tin20an20toan_ chess2050wgmsds_0.pdf?token=1495092896, ngày truy cập 16/10/2017;

7. Dương Đức Tiến và Võ Hành. 1997. Tảo nước ngọt Việt Nam - Phân loại bộ tảo lục. Nhà xuất bản Nông nghiệp. Hà Nội, 503 trang;

8. Markou G., Vandamme D., and Muylaert K. 2014. Microalgal and cyanobacterial cultivation: The supply of nutrients. Water research, 65: 186-202.

TS. BÙI THỊ MAI PHỤNG

Khoa Kỹ thuật, Công nghệ - Môi trường

Trường Đại học An Giang