
Ảnh minh họa
Xây dựng, nghiên cứu, áp dụng các mô hình trong thích ứng biến đổi khí hậu
Chúng ta đã triển khai nghiên cứu, thí điểm một số giống lúa, áp dụng các biện pháp kỹ thuật sản xuất nông nghiệp thích ứng với BĐKH. Nhiều biện pháp canh tác thích ứng với BĐKH đã được nghiên cứu, triển khai. Chuyển đổi cơ cấu, giống cây trồng, vật nuôi, điều chỉnh mùa vụ, kỹ thuật sản xuất thích ứng với BĐKH được đề ra trong thực hiện. Một số giống lúa thích nghi với điều kiện úng ngập, chịu mặn, chịu phèn được nghiên cứu, ứng dụng; đã xây dựng và ứng dụng bộ bản đồ rủi ro và lập kế hoạch thích ứng với BĐKH (CS-Map) cho 43 tỉnh, thành phố trên cả nước. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH nhằm chuyển đổi mô hình tăng trưởng để phát triển ĐBSCL bền vững, thịnh vượng theo hướng tôn trọng quy luật tự nhiên; coi nước mặn, nước lợ là nguồn tài nguyên cho phát triển; xoay trục chiến lược sang thủy sản - trái cây - lúa gạo,… TS. Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục BĐKH cho biết, đến nay, hầu hết các địa phương đã ban hành Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris về BĐKH, Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH của địa phương. Các thành phố, đô thị lớn ven biển đều chủ động đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp phòng, chống, hạn chế tác động của triều cường, ngập lụt, xâm nhập mặn. Thí điểm trên toàn quốc nhiều mô hình sinh kế cộng đồng thích ứng với BĐKH; lồng ghép nội dung BĐKH vào hầu hết các chiến lược, quy hoạch quốc gia, ngành. Triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH, các chương trình KH&CN cấp quốc gia đã có đóng góp lớn trong nâng cao năng lực thích ứng BĐKH, cải thiện cơ sở hạ tầng PCTT, xác định cơ sở khoa học cho các hoạt động ứng phó BĐKH trên quy mô cả nước. Các chương trình, hoạt động hợp tác quốc tế như Chương trình hỗ trợ ứng phó với BĐKH (SP-RCC) đã huy động 1,5 tỷ USD triển khai trên toàn quốc, trở thành một hình mẫu về đối thoại chính sách ứng phó BĐKH được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.
Theo Lãnh đạo Cục BĐKH, việc xây dựng, nghiên cứu, áp dụng các mô hình trong thích ứng BĐKH, nhiệm vụ khoa học công nghệ (KHCN) đóng vai trò quan trọng. Chúng ta thực hiện Chương trình KHCN quốc gia về ứng phó với BĐKH, quản lý tài nguyên và BVMT đã đạt được nhiều kết quả tích cực; nhiều công nghệ mới thích ứng với BĐKH đã được nghiên cứu, ứng dụng trong xây dựng, giao thông, phát triển vật liệu xây dựng, thoát nước. Các chương trình nghiên cứu KHCN về ứng phó với BĐKH đã được Bộ KH&CN chủ trì, tổ chức triển khai trong thời gian qua. Các chương trình “KHCN phục vụ Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với BĐKH” giai đoạn 2011-2015 với 48 đề tài và Chương trình “KHCN ứng phó với BĐKH, quản lý tài nguyên và BVMT giai đoạn 2016-2020” với 43 đề tài được thực hiện. Đã xây dựng được 10 mô hình nhà thích ứng với lũ lụt tại tỉnh Thừa Thiên Huế có khả năng nhân rộng ra các địa phương khác và mô hình làng sinh thái ứng phó với BĐKH tại vùng ĐBSCL, thí điểm ở Cà Mau. Đã nghiên cứu, xây dựng bộ chỉ số và mô hình đô thị ven biển thích ứng với BĐKH. Công nghệ thoát nước đô thị bền vững cũng được triển khai áp dụng. Nghiên cứu công nghệ neo trong đất để gia cố đê biển làm nền đường ô tô nhằm nâng cao khả năng ứng phó BĐKH của hệ thống đê biển và đường giao thông ven biển ở ĐBSCL; đề xuất nhóm giải pháp công nghệ chuyển nước mặn thành nước ngọt, các công nghệ thân thiện với môi trường, sử dụng năng lượng tái tạo, tiết kiệm nhiên liệu,...
Báo cáo của Bộ TN&MT cho thấy, trong phòng chống và giảm nhẹ thiên tai (PCGNTT) cho cộng đồng dân cư, hoạt động tăng cường kiến thức, nâng cao năng lực thích ứng, bảo đảm sinh kế cho người dân những vùng có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nề của BĐKH, vùng thường xuyên bị tác động của thiên tai được đẩy mạnh. Công tác đào tạo, tập huấn nâng cao nhận thức cộng đồng về PCTT được đẩy mạnh; nhận thức của các cấp chính quyền và người dân về PCTT đã dần được cải thiện. Công tác thông tin truyền thông đã có nhiều thay đổi, đóng góp hiệu quả trong việc cảnh báo diễn biến thiên tai. Chính sách, pháp luật, tổ chức bộ máy về PCTT được hoàn thiện thêm một bước; cơ sở hạ tầng về phòng, tránh và giảm nhẹ thiên tai, thích ứng với BĐKH được quan tâm đầu tư,… Nhờ đó, thiệt hại về người và tài sản do thiên tai đã giảm đáng kể so với 10 năm trước. Thiệt hại do thiên tai trong giai đoạn 2008-2017 đã giảm 38% về người và 29% về vật chất so với giai đoạn 1998-2007; giai đoạn 2018-2022 giảm 18% về người, 34% về vật chất so với giai đoạn 2013-2017. Công tác tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ từng bước được tăng cường, góp phần khắc phục các thiệt hại về người và tài sản cho nhân dân.
Hoạt động chăm sóc sức khỏe nhân dân trong các vùng bị tác động mạnh của BĐKH được Bộ Y tế chú trọng thông qua triển khai các mô hình vệ sinh môi trường, cung cấp nước sạch.Việc nâng cấp, bảo đảm an toàn các hồ chứa nước tiếp tục được quan tâm; hệ thống thủy lợi được đầu tư, nâng cấp; các chương trình đê biển được triển khai; công tác bảo vệ, phục hồi, trồng rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển đã được thúc đẩy, diện tích rừng ngập mặn đã tăng từ 168.688 ha năm 2013 lên 174.139 ha năm 2017.
Khó khăn và giải pháp trong giảm nhẹ thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu
Công tác PCGNTT còn bị động, nặng về giải quyết tình huống khi có thiên tai, năng lực phản ứng còn chậm; hệ thống sản xuất kém bền vững, cơ cấu chưa phù hợp; cơ sở hạ tầng còn thấp kém, dễ bị tổn thương khi thiên tai xảy ra; công tác tổ chức cứu trợ khẩn cấp, khắc phục hậu quả còn chậm, có nơi còn lúng túng, thiếu sự phối hợp thống nhất; công tác tìm kiếm, cứu nạn còn hạn chế do thiếu trang thiết bị và nhân lực chuyên nghiệp. Việc chủ động di dời, sắp xếp lại các điểm dân cư ở các khu vực có nguy cơ xảy ra lũ quét, sạt lở đất ở vùng núi phía Bắc còn chưa đạt yêu cầu; hỗ trợ hộ nghèo khu vực miền Trung trong ứng phó lũ lụt còn chậm. Triển khai thực hiện các đề án chống ngập cho các địa phương ĐBSCL và ven biển vẫn còn chậm. Sạt lở bờ biển ở một số nơi như Cà Mau, các tỉnh ven biển miền Trung xảy ra nghiêm trọng.
TS. Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục BĐKH cho biết, để thích ứng BĐKH, cần nâng cao nhận thức của toàn xã hội, thúc đẩy nhận thức, hiểu biết đúng và đầy đủ về ứng phó với BĐKH, chuyển đổi năng lượng công bằng. Ứng phó với BĐKH là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị và toàn xã hội. Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, dẫn dắt; người dân và doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm và là chủ thể thực hiện cùng với sự tham gia hiệu quả của các tổ chức chính trị - xã hội. Nâng cao ý thức trách nhiệm của cộng đồng doanh nghiệp đối với xã hội và môi trường; chủ động thực hiện các biện pháp sản xuất kinh doanh phát thải ít các-bon, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, ít chất thải, phát triển kinh tế tuần hoàn. Thực hiện trao quyền và khuyến khích các chủ thể địa phương giữ vai trò chủ đạo; tăng cường trao quyền, bảo đảm quyền sở hữu, tăng cường năng lực, bảo đảm bình đẳng giới để thúc đẩy sự tham gia hiệu quả của cộng đồng trong quản lý tài nguyên, nhất là tài nguyên rừng. Nâng cao quyền lợi và vai trò của các hộ sản xuất nhỏ, cộng đồng địa phương và người dân bản địa. Bảo đảm công bằng, bình đẳng giới, sự tham gia của thanh thiếu niên trong ứng phó với BĐKH và thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.
Về thích ứng với BĐKH, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật nhằm nâng cao khả năng chống chịu và năng lực thích ứng của hệ thống tự nhiên, kinh tế và xã hội, bảo đảm sinh kế bền vững; giảm thiểu thiệt hại do thiên tai và khí hậu cực đoan gia tăng do BĐKH; sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật liên quan khuyến khích chuyển đổi năng lượng và phát triển kinh tế xanh, phát triển các-bon thấp; xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn về thích ứng với BĐKH đối với các lĩnh vực dễ bị tổn thương trước tác động của BĐKH. Đánh giá, xem xét đề xuất xây dựng Luật BĐKH trong giai đoạn tới; tiếp tục chú trọng xây dựng hạ tầng thích ứng với BĐKH, nâng cao khả năng PCTT, đặc biệt là phòng chống xâm nhập mặn, sạt lở bờ sông, bờ biển, sạt lở, trượt lở đất đá khu vực ĐBSCL, ven biển miền Trung và miền núi phía Bắc. Thúc đẩy các giải pháp thích ứng với BĐKH gắn với giảm phát thải khí nhà kính và tăng trữ lượng các-bon. Rà soát, đánh giá việc thi hành Luật KTTV; rà soát, điều chỉnh, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật, quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy định, quy trình kỹ thuật liên quan đến hoạt động khí tượng thủy văn, thiên tai KTTV.
HOÀNG THẢO
Bộ Tài nguyên và Môi trường
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 19 (Kỳ 1 tháng 10 năm 2023)