
Đặt vấn đề
Nhựa là một loại polymer hữu cơ tổng hợp đáp ứng được rất nhiều nhu cầu của con người. Chính sự tiện lợi và giá thành rẻ của các sản phẩm bằng nhựa đã góp phần tạo nên thói quen tiêu dùng của người dân trên thế giới nói chung và Việt Nam và tạo nên khối lượng rác nhựa khổng lồ [1]. Quần đảo Cát Bà là khu vực bảo tồn biển và có khu dự trữ sinh quyển Cát Bà được UNESCO công với diện tích 26.241 ha (17.041 ha phần đảo và 9.200 ha phần biển) [4]. Tại đây, rác thải nhựa (RTN) đang là vấn đề gây tác động tiêu cực tới hệ sinh thái, môi trường sống nói chung và ảnh hưởng tới sức khỏe của con người nói riêng [2] và chưa có giải pháp xử lý hiệu quả ngoài đốt và chôn lấp cùng các loại rác thải hỗn hợp.
Tái chế là một phương pháp thay thế cho xử lý RTN bằng phương pháp chôn lấp hoặc đốt để tạo các sản phẩm nguyên liệu nhựa, dầu hoặc một số sản phẩm khác. Các giải pháp, kỹ thuật này đã được thực hiện ở một số nước trên thế giới và biện pháp hiệu quả để giải quyết vấn đề thu hồi RTN. Xuất phát từ những thực tế trên, thực hiện nghiên cứu đánh giá tiềm năng tái chế RTN tại quần đảo Cát Bà, huyện Cát Hải, TP. Hải Phòng nhằm góp phần hoàn thiện cơ sở dữ liệu về công tác tái chế, quản lý RTN, góp phần vào hoạt động quản lý chất thải nhựa theo các kế hoạch quốc gia.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp điều tra xã hội học, tiến hành phỏng vấn trực tiếp 100 hộ gia đình, hộ kinh doanh, dịch vụ về khối lượng, thói quen phân loại, thu gom, thải loại RTN bằng bảng hỏi. Hoạt động lấy mẫu ngẫu nhiên để xác định khối lượng rác thải nhựa được thu gom, thành phần RTN tại khu vực nghiên cứu được tiến hành 2 đợt tại 5 hộ thu mua phế liệu. Phương pháp SWOT được sử dụng để đánh giá tiềm năng tái chế RTN tại quần đảo Cát Bà, huyện Cát Hải, TP. Hải Phòng
Kết quả nghiên cứu
Thói quen sử dụng, thải loại đồ nhựa và phân loại RTN tại cộng đồng dân cư tại quần đảo Cát Bà, huyện Cát Hải, TP. Hải Phòng: Qua việc khảo sát 100 hộ dân trên quần đảo phần nào có thể thấy được nhận thức và quan điểm về RTN của người dân nơi đây. Đánh giá của người dân về việc phát sinh RTN trên thị trấn là thường xuyên chiếm 66% đối với hộ gia đình tự do, 46% với hộ kinh doanh và 10% đối với hộ cán bộ nhân viên trong các cơ quan, doanh nghiệp. Đối với mức độ sử dụng các đồ dùng nhựa, 100% người dân có sử dụng đồ nhựa dùng một lần hàng ngày, trong đó túi nilon chiếm tỷ lệ cao nhất (63,33%). Trung bình mỗi hộ dân sử dụng 2-4 túi nilon/ngày, số lượng chai nhựa được sử dụng thường từ 1-2 chai chiếm 39%, thùng xốp thường là các hộ kinh doanh sử dụng chiếm 18,25%. Ngoài ra, với đặc điểm là quần đảo du lịch nên việc phát sinh RTN là túi nilon và chai nhựa là điều phổ biến tại đây vì tính tiện lợi cũng như nhu cầu của du khách. Đối với các loại đồ dùng này ít được tái sử dụng mà thường chuyển thành RTN cần được xử lý, như vậy đây chính là nguồn nguyên liệu cần được tái chế để giảm lượng RTN đốt vả chôn lấp
Khi được hỏi về việc tái sử dụng thì chỉ có 30% người dân có thói quen tái sử dụng đồ nhựa dùng một lần và người dân thường phân loại RTN thành hai loại, một loại để tái sử dụng, loại còn lại để bán cho cơ sở thu mua phế liệu. Qua kết quả này, nghiên cứu nhận thấy đa số người dân vẫn chưa tạo được thói quen tái chế, tái sử dụng RTN. Lý giải cho vấn đề này là do người dân chưa được tiếp cận với các hướng dẫn tái chế hoăc chưa thấy được lợi ích từ việc tái chế RTN.
Hiện trạng tái chế RTN tại quần đảo Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng: Hiện nay, trên toàn bộ thị trấn Cát Bà việc tái chế RTN sau khi thu gom vẫn chưa được thực hiện. Việc thu gom RTN và chủ yếu do các cơ sở thu gom phế liệu thu mua từ các hộ dân, từ những người mua đồng nát và của công nhân vệ sinh môi trường. Qua phỏng vấn trực tiếp và phiếu điều tra, trên toàn địa bàn thị trấn Cát Bà có 5 hộ thu mua phế liệu. Những người thu mua phế liệu này đều coi đây là nguồn thu nhập chính của gia đình.
Trước khi có dịch Covid-19, số lượng phế liệu thu mua 1 ngày của các hộ khoảng 700-1500 kg, trong thời gian dịch Covid-19 diễn biến phức tạp các hoạt động du lịch tạm dừng nên số lượng phế liệu thu mua cũng giảm xuống còn khoảng 100-250 kg/hộ; trong đó RTN có khoảng 20-35 kg/hộ. Trong 5 hộ thu mua, buôn bán phế liệu, không có hộ nào tiến hành tái sử dụng RTN sau thu mua, 3 hộ đóng gói các loại rác thải, phế liệu theo cách thô sơ, thủ công và 2 hộ sử dụng máy ép phế liệu để có thể dễ dàng vận chuyển vào đất liền.
Khối lượng RTN trong hai ngày được xác định bằng phương pháp khảo sát tại các cơ sở và phỏng vấn chủ các cơ sở thu gom Nhóm nghiên cứu lấy ngẫu nhiên 10 kg RTN tại mỗi cơ sở thu gom trong 2 ngày và tiến hành phân loại. Với tổng khối lượng rác là 100kg, cho kết quả như sau, RTN chủ yếu thuộc các nhóm PET chiếm 42,8% (bao gồm chai nước giải khát, nước khoáng, chai nước trái cây, chai dầu ăn…), HDPE chiếm 28,5% (gồm chai nước giặt, nước tẩy, nước rửa bát…); PVC chiếm 17,5% (gồm ống nhựa dẫn nước, khay đựng trứng…); PP chiếm 6,9% (gồm chai nước sốt, hộp sữa chua…), PS chiếm 0,4% (gồm cốc nhựa và thìa nhựa dùng 1 lần) và các loại khác chiếm 3,9%.
Kết quả khảo sát thực tế về khối lượng RTN được thu mua và thành phần rác thải nhựa tại các cơ sở phế liệu được thống kê ở Bảng 1.
Bảng 1. Khối lượng và thành phần RTN được thu mua tại của hộ thu mua phế liệu trên địa bàn thị trấn Cát Bà
Đánh giá tiềm năng tái chế RTN tại quần đảo Cát Bà, huyện Cát Hải, TP. Hải Phòng
Với lợi thế là một điểm du lịch nổi tiếng, Cát Bà hàng năm thu hút hàng triệu khách du lịch đến tham quan, nghỉ dưỡng. Nơi đây còn là một trong những ngư trường lớn nhất miền Bắc. Chính vì thế, lượng rác thải đặc biệt là RTN thải ra rất lớn và gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường cũng như sức khỏe con người. Từ quá trình thực địa, khảo sát nghiên cứu nhận thấy địa phương cũng rất tích cực triển khai các chương trình, kế hoạch tuyên truyền về việc hạn chế sử dụng đồ nhựa, túi nilon,…vì thế người dân đã có ý thức trong việc phân loại rác, tái sử dụng túi nilon, tham gia tích cực các hoạt động mà địa phương triển khai. Tuy nhiên, việc xử lý RTN mới chỉ dừng lại ở việc tái sử dụng lại túi nhựa nilon dùng một lần và một số chai nhựa. Hơn nữa, trên địa bàn chỉ có 5 hộ thu mua phế liệu tự phát, không có hộ nào tiến hành tái sử dụng chất thải nhựa sau thu mua. Vì vậy, trong thời gian tới địa phương cần áp dụng các phương pháp tái chế RTN tiên tiến trên thế giới cũng như đẩy mạnh tuyên truyền, có các chế tài xử phạt đối với các hành động xả thải chất thải nói chung và RTN nói riêng làm ảnh hưởng đến môi trường và hệ sinh thái quần đảo Cát Bà.
Kết luận
Kết quả khảo sát vào tháng 12/2022, thời điểm hoạt động du lịch ở thị trấn Cát Bà đang tạm dừng, lượng RTN được các cơ sở thu mua ước tính khoảng 142,5 kg/ngày. Lượng RTN này đươc thu mua từ các hộ gia đình, kinh doanh và các ngư dân với thành phần nhựa chủ yếu là PET, HDPE, PVC, PP, PS. Người dân tại thị trấn Cát Bà đã có những nhận thức nhất định trong việc hạn chế sử dụng, phân loại và tái chế rác thải nhựa. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, một lượng lớn RTN tại khu vực nghiên cứu không được các cơ sở thu mua đang được xử lý chung với chất thải rắn hỗn hợp. Cát Bà đang trên đà phát triển về cả du lịch lẫn các ngành công nghiệp, cảng biển, lượng RTN tại đây phát sinh rất nhiều, do vậy tiềm năng tái chế thải nhựa tại đây khá lớn và cần thiết để đảm bảo công tác quản lý RTN và bảo vệ môi trường khu vực quần đảo Cát Bà.
Lời cảm ơn
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Bộ TN&MT, Đề tài cấp Bộ mang mã số: TNMT.2021.05.03. Các tác giả xin trân trọng cảm ơn.
Tài liệu tham khảo
1. Dương Thị Phương Anh và các cộng sự (2018). Nghiên cứu cơ sở lý luận. kinh nghiệm quốc tế về kiểm soát chất thải nhựa trên biển. Viện Chiến lược, Chính sách TN&MT;
2. Phòng TN&MT huyện Cát Hải (2019). Báo cáo công tác BVMT huyện Cát Hải năm 2019. UBND huyện Cát Hải;
3. Phòng TN&MT huyện Cát Hải (2018). Báo cáo kế hoạch và dự toán kinh phí và sự nghiệp BVMT năm 2019. UBND huyện Cát Hải;
4. Phòng Thống kê huyện Cát Hải (2020). Báo cáo Tình hình kinh tế-xã hội; quốc phòng-an ninh năm 2020; phương hướng. nhiệm vụ 2021. UBND huyện Cát Hải;
5. Hồng Vy (2017). Rác thải - Thách thức môi trường nghiêm trọng trên toàn cầu. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
NGUYỄN THỊ CHINH, MAI HƯƠNG LAM, LÊ THỊ TRINH, PHẠM THỊ MAI THẢO
Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội