Nghiên cứu khoa học đáp ứng yêu cầu ứng phó biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường

Thứ sáu, 1/10/2021, 09:50 (GMT+7)
logo Tại Hội nghị Tổng kết 5 năm triển khai thực hiện Chương trình Khoa học và Công nghệ cấp quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và môi trường giai đoạn 2016 - 2020, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho rằng, những nghiên cứu của Chương trình sẽ đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, đồng thời là động lực cho phát triển kinh tế-xã hội, bền vững đất nước.

Nghiên cứu khoa học đáp ứng yêu cầu ứng phó biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường

Ảnh minh họa

 

Nghiên cứu, phát triển các đề tài khoa học phục vụ cuộc sống


Trong 5 năm, Chương trình KH&CN cấp quốc gia ứng phó với BĐKH, quản lý TN&MT giai đoạn 2016 - 2020 (Chương trình) đã nhận được sự tham gia tích cực, hiệu quả của các tổ chức nghiên cứu, các nhà khoa học, chuyên gia ở khắp các vùng miền trên cả nước. Chương trình được triển khai thực hiện 43 đề tài nghiên cứu cấp quốc gia, tập trung về các nội dung: Ứng phó với BĐKH; quản lý TN&MT; nghiên cứu cơ sở khoa học đối với những vấn đề có tính tổng hợp, liên ngành và liên vùng về chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý TN&MT; chuyển giao kết quả nghiên cứu.


Đánh giá về thành công của Chương trình, Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà cho rằng, Chương trình không chỉ đề xuất được những giải pháp hiệu quả cho ngành TN&MT mà còn đóng góp quan trọng cho sự phát triển KT-XH bền vững. Hiện nay, thế giới đang trong giai đoạn tìm ra những giải pháp phát triển bền vững (PTBV) trong bối cảnh ONMT xuyên biên giới, BĐKH đang diễn ra nhanh chóng, cực đoan và khó lường. Việt Nam đã đặt ra yêu cầu ngày càng cao từ thực tiễn về quản lý TN&BVMT và ứng phó với BĐKH. Do đó, thành công của Chương trình góp phần phát triển nguồn nhân lực cho lĩnh vực TN&MT, cung cấp luận cứ, cơ sở khoa học để đề xuất các giải pháp hiệu quả cho việc thực thi chính sách, pháp luật về quản lý TN&BVMT và ứng phó với BĐKH. Các sản phẩm của nhiều đề tài đã được công bố rộng rãi trong nước và quốc tế, trở thành những tài liệu chuyên khảo phục vụ công tác nghiên cứu và giảng dạy tại nhiều cơ sở đào tạo, nghiên cứu trong nước. Đồng thời, mở ra những chương trình hợp tác quốc tế để chia sẻ, học hỏi những tiến bộ khoa học của các nước tiên tiến phục vụ đất nước.


Theo báo cáo, các kết quả nghiên cứu của các đề tài, đến nay, đã hoàn thành được các mục tiêu và nội dung của Chương trình. Trong đó, về ứng phó với BĐKH, đã xây dựng, phát triển hệ thống giám sát BĐKH và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK) phù hợp với điều kiện Việt Nam; giải quyết các vấn đề lên quan đến xâm nhập mặn (các loại đất, cây trồng, rừng,...); đưa ra được các giải pháp chủ động thích ứng với BĐKH trong từng ngành, từng lĩnh vực nhất là các vùng dễ bị tổn thương,... các giải pháp công nghệ về giống, cây trồng, công nghệ trong canh tác trong điều chỉnh kỹ thuật mùa vụ, kỹ thuật sản xuất nông nghiệp thích ứng với BĐKH; xây dựng các mô hình kinh tế thích ứng với các hiện tượng thiên tai cực đoan và các mô hình kinh tế ứng phó với xâm nhập mặn. Trong quản lý TNMT, Chương trình đã đưa ra các phương pháp luận trong công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quản lý biến động tài nguyên và quản lý giám sát biến động sử dụng đất, xây dựng được các bản đồ quản lý tài nguyên đất,... đánh giá tổng quan an ninh nguồn nước; lượng giá và quy trình kết chuyển các giá trị tài nguyên vào môi trường hoạch toán tài khoản quốc gia; đánh giá hoạt động kiến tạo đối với sự biến đổi dòng chính các lưu vực sông và xây dựng được các bản đồ có liên quan.


Cung cấp luận cứ khoa học, ứng dụng mô hình phục vụ quản lý tài nguyên, môi trường 


Đến nay, Chương trình đã tổ chức đánh giá nghiệm thu cấp quốc gia cho 30 đề tài và đánh giá nghiệm thu cấp cơ sở cho 9 đề tài, trong đó, 4 đề tài được Hội đồng KHCN cấp quốc gia đánh giá xếp loại xuất sắc. Chương trình đã chuyển giao các kết quả nghiên cứu của các đề tài cho các bên liên quan, góp phần nâng cao hiệu quả của Chương trình nói riêng và KHCN nói chung phục vụ ứng phó với BĐKH, quản lý tài nguyên, BVMT&PTBV. Cùng với đó, Chương trình đã giới thiệu các kết quả, sản phẩm của đề tài rộng rãi trong nước và quốc tế thông qua công bố 77 bài báo quốc tế có chỉ số ISI hoặc Scopus; 156 bài báo trên tạp chí khoa học trong nước và xuất bản 12 sách chuyên khảo, tạo cơ hội phát triển hợp tác trong và ngoài nước. Đặc biệt, Chương trình góp phần phát triển nguồn nhân lực về ứng phó với BĐKH, quản lý TNMT thông qua đào tạo 99 thạc sĩ và hỗ trợ đào tạo 48 tiến sĩ, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thông qua thực hiện các đề tài thuộc Chương trình đối với 1.844 thạc sĩ, 980 tiến sĩ, nâng cao 186 phó giáo sư, 38 giáo sư. 


Các đề tài khoa học được thực hiện trong Chương trình của các giáo sư, tiến sĩ, nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu về các hiện tượng BĐKH, ứng dụng công nghệ hiện đại trong xây dựng mô hình quản lý biến động tài nguyên, hoàn thiện công cụ quản lý và nâng cao năng lực giám sát biến động tài nguyên đất; nghiên cứu tác động của hoạt động tân kiến tạo đối với sự biến đổi dòng chính các lưu vực sông; nghiên cứu xây dựng hệ số phát thải KNK quốc gia cho lúa và các loại cây trồng cạn chủ yếu phục vụ kiểm kê KNK,… Từ đó, đề xuất các giải pháp quản lý rủi ro, tăng cường năng lực nghiên cứu của các cơ sở nghiên cứu, đào tạo, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, phục vụ ứng phó với BĐKH, quản lý tài nguyên, BVMT và PTBV. Nói về các kết quả của Chương trình, Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt đã đánh giá cao tính áp dụng vào thực tiễn đối với các nhà quản lý TN&MT trong bối cảnh khắc nghiệt, nhất là khi Việt Nam là một trong 5 nước chịu ảnh hưởng rất lớn của BĐKH. Trong quá trình tổ chức, triển khai, Chương trình gặp một số khó khăn như đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng đến công tác quản lý đề tài, như: Công tác kiểm tra, đánh giá, hội thảo các đề tài; đặc biệt đối với các đề tài có nội dung đi điều tra khảo sát và tập huấn tại các địa phương. Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Bộ TN&MT, các thành viên Ban Chủ nhiệm, Văn phòng Chương trình đã hoàn thành các mục tiêu đề ra. Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt nhấn mạnh, Chương trình KHCN Quốc gia mang tính tổng hợp chuyên ngành nhằm cung cấp luận cứ khoa học, ứng dụng mô hình phục vụ ứng phó với BĐKH, quản lý TN&MT. Chương trình này cũng góp phần quan trọng thực hiện cam kết của Việt Nam trong Thỏa thuận Paris thông qua việc nghiên cứu cơ sở khoa học để đề xuất triển khai các giải pháp đã được cơ chế chính sách và phục vụ đóng góp quốc gia tự quyết định và công tác đàm phán tại cuộc họp thường niên các bên tham gia công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH.


TS. Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục BĐKH, Chánh văn phòng Chương trình cho biết, qua việc tổ chức thực hiện Chương trình, cơ quan quản lý, các nhà khoa học đã đúc rút, kiến nghị một số giải pháp nhằm phát huy và nâng cao hiệu quả áp dụng các kết quả nghiên cứu của các đề tài: Cần chuyển hoá, hướng dẫn sử dụng các kết quả, sản phẩm của các đề tài một cách đơn giản, thuận tiện, dễ dàng sử dụng đối với các bên liên quan. Coi ứng phó với BĐKH, quản lý TN&BVMT dựa vào KHCN là nhu cầu tự thân, nội tại và thực sự muốn nâng cao chất lượng, hiệu quả của công việc này dựa vào KHCN. Nâng cao năng lực sẵn sàng công nghệ để triển khai các kết quả, sản phẩm của các đè tài, chương tình KHCN,... Chủ động đề xuất nhu cầu, yêu cầu chi tiết về các giải pháp KHCN ứng phó với BĐKH, quản lý TN&MT. Đẩy mạnh hợp tác, cùng đầu tư với cộng đồng KHCN để xây dựng, triển khai các nhiệm vụ KHCN liên quan ứng phó với BĐKH, quản lý TN&MT. Cần có chính sách khuyến khích, yêu cầu sử dụng các kết quả, sản phẩm KHCN trong công tác ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý TN&BVMT để phát triển bền vững; hỗ trợ kinh phí phát triển các kết quả, sản phẩm KHCN của các đề tài thành thương phẩm để chuyển giao.

 

 HOÀNG NGUYÊN
    Bộ Tài nguyên và Môi trường