Nguồn nước và những thách thức đến an ninh nguồn nước tại Thành phố Hồ Chí Minh

Thứ năm, 25/11/2021, 16:38 (GMT+7)
logo Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những Thành phố lớn nhất Việt Nam, là một trung tâm kinh tế, văn hóa, du lịch và khoa học kỹ thuật quan trong ở phía Nam Việt Nam. Diện tích tự nhiên của Thành phố là 2.095,01 km2 với dân số 8.247.829 người (theo số liệu tổng kiểm kê năm 2015) chưa kể khách vãng lai. Tốc độ phát triển kinh với mức tăng trưởng hơn 8% /năm. Thành phố nằm ở hạ lưu của sông Đồng Nai-Sài Gòn, nguồn nước cấp cho Thành phố phụ thuộc rất lớn vào nguồn nước mặt cấp từ các địa phương ở thượng nguồn sông Sài Gòn và sông Đồng Nai. Thêm vào đó, khả năng nguồn nước cấp (nước nhạt) phân bố trên địa bàn Thành phố đã và đang thiếu hụt so với nhu cầu cấp nước ngày càng gia tăng. Trong khi đó, công tác quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng TNN giảm thiểu thiệt hại do nước gây ra trên địa bàn còn gặp nhiều khó khăn, thách thức; đồng thời sự tác động của BĐKH và hoạt động kinh tế các địa phương vùng thương lưu,sự gia tăng khai thác, sử dụng nguồn nước. Tình trạng trên đang và sẽ gây áp lực

Nguồn nước và khả năng khai thác ở TP. Hồ Chí Minh

Nguồn nước đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự sống còn của thế giới sinh vật. Hiện nay, cơ bản có ba nguồn nước chính gồm nước mưa, nước mặt, nước dưới mặt đất đang được khai thác đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con người. Môi trường tự nhiện nói chung và nguồn nước nói riêng luôn có sự thay đổi và luôn có sự tạo mới cân bằng của chúng phù hợp với sự thay đổi ấy. Khi con người tác động vào nguồn nước phục vụ cho sự tồn tại của mình. Một khi quy mô của sự tác động gia tăng đến mức quá khả năng tự cần bằng của nguồn nước thì nguồn nước phải gồng mình để chống lại sự can thiệp ấy để thiết lập một cân bằng mới. Một thực tế, các nguồn nước là đối tượng bị tác động nhiều nhất từ con người, đặc biệt do đô thị hóa, kinh tế phát triển nhanh làm cho nhu cầu nước tăng và nguồn nước càng bị khai thác nhiều hơn. Hiện nay, chúng ta đang chứng kiến những hậu quả phản ứng từ nguồn nước đối với con người như lụt bão, hạn hán, thiếu nước sạch… Sự phản kháng của nguồn nước đã và đang đe dọa đến sự an ninh nguồn nước và của con người. Nguồn nước của Thành phố cũng không ngoại lệ và cũng đang chịu sự tác động rất mạnh từ hoạt đông của con người, từ BĐKH đang đe dọa đến an ninh nguồn nước, đang có dấu hiệu ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển KT-XH của Thành phố.

Nguồn nước phân bố trên địa bàn Thành phố gồm: Nước mưa trên địa bàn có tổng lượng mưa bình quân năm vào khoảng 3,3 tỷ m3, cao nhất 6,7 tỷ m3, thấp nhất là 2,2 tỷ m3. Lượng nước mưa tiềm năng trung bình có thể có khai thác là 1.133 mm khoảng 1,9 tỷ m3, nhỏ nhất 1,3 tỷ m3 và lớn nhất 3,9 tỷ m3 [1]. Nước mặt nhạt trên địa bàn Thành phố chỉ có thể khai thác khoảng 900.000 m3/ ngày từ sông Sài Gòn. Nước dưới đất nhạt có thể khai thác khoảng 1,6 triệu m3/ngày-đêm [6]. Hiện nay, nguồn nước mưa chưa được xem như là một nguồn nước cấp cho Thành phố, do đó khả năng khai thác nước nhạt sinh ra và phân bố trên địa bàn là khoảng 2,5 triệu m3/ngày đêm [3].

Để đáp ứng nhu cầu nước của Thành phố, trong thời gian qua các nguồn nước phân bồ trên địa bàn Thành phố đã và đang được khai thác. Nguồn nước mặt nhạt hiện đang khai thác với khối lượng 600.000 m3/ngày-đêm từ nguồn nước sông Sài Gòn; nguồn nước mặt lợ được khai thác từ năm 2007 (Nhà máy xử lý nước lợ Cần Giờ lấy nước từ sông Lòng Tàu) với công suất 5.000 m3/ ngày-đêm và nay đã ngưng hoạt động. Nguồn nước dưới đất nhạt được khai thác từ các tầng chứa nước (6 tầng chứa nước) khoảng 560.000 m3/ngày-đêm (số liệu 2017). Nhu cầu cấp nước cho Thành phố hiện nay là 2,8 triệu m3/ngày-đêm, dự báo năm 2025 sẽ vào khoảng 3,5 triệu m3/ngày-đêm. Thành phố đã phải khai thác nước nhạt từ các tỉnh lân cận, khai thác từ tỉnh Đồng Nai khoảng 1,45 triệu m3/ngày-đêm và 0,15 triêu m3/ngày-đêm từ kênh Đông Củ Chi lấy nước từ hồ Dầu Tiếng, Tây Ninh. Trong thời gian tới sẽ tiếp tục nâng công suất nhà máy nước Tân Hiệp lên 0,9 triệu m3/ ngày-đêm và 0,3 triệu m3/ngày-đêm nhà máy nước kênh Đông. Hiện nay, nguồn nước cấp của Thành phố. khai thác từ ngoài lãnh thổ chiếm 57% và vào năm 2025 chiếm khoảng 50% nếu không giảm khai thác nước dưới đất đến 100.000 m3/ngày-đêm.

Nguồn nước và những thách thức đến an ninh nguồn nước tại Thành phố Hồ Chí Minh

Ảnh minh họa

Thách thức an ninh nguồn nước của TP. Hồ Chí Minh

Nguồn nước của TP. Hồ Chí Minh hiện nay đang phải đối diện với các thách thực sau: Lượng nước có thể khai thác trên địa bàn Thành phố không đáp ứng đủ nhu cầu nước của Thành phố: Không tính đến nguồn nước mưa, nguồn nước lợ, nguồn nước tái sử dụng, khả năng có thể khai thác nước phát sinh trên địa bàn Thành phố chỉ khoảng 2,5 triệu m3/ngày về nguyên tắc không thể khai thác hết 100% khả năng khai thác nước trên. Theo kế hoạch giảm khai thác nước dưới đất của Thành phố đến năm 2025 lượng nước dưới đất chỉ được khai thác khoảng 0,1 triệu m3/ngày-đêm. Đến khí đó việc gia tăng khai thác nước từ các tỉnh thương nguồn LVS Đồng Nai khoảng 2,5 tỷ m3/ngày-đêm chiếm 71,4% lượng nước cấp của Thành phố năm 2025. Do đó, Thành phố không thể chủ động trong khai thác, sử dụng, bảo vệ và phòng chống rủi ro do nguồn nước gây ra trong thời gian tới. (ii) Chất lượng nguồn nước có xu hướng xấu đi: Chất lượng nguồn nước của Thành phố đang phải đối mặt với nhiều sức ép từ chính bản thân Thành phố và các tỉnh lân cận. Thành phố nằm ở phần hạ lưu LVS Đồng Nai, nguồn nước chịu tác động mạnh từ chế độ nước ở vùng thượng lưu, mùa khô hầu như không có nước chảy về làm cho lưu lượng nước giảm gây thiếu nước nhạt và gia tăng xâm nhập mặn từ biển; mùa mưa nước đổ về nhiều làm dâng cao mực nước gây ngập. Mặt khác Thành phố. Là Thành phố giáp biển, nguồn nước bị tác động mạnh từ chế độ thủy triều, xâm nhập mặn đặc biệt là mùa khô, không có nước chảy về từ thượng nguồn. Thành phố nằm ở vùng hạ lưu phân bố nước nhạt ít cả nước mặt và nước dưới đất và nguồn nước bị tác động lớn từ chế độ dòng chảy sông thượng nguồn và từ nước biển dâng [2]. Sức ép từ sự gia tăng dân số và đô thị hóa: Trên LVS Đồng Nai dân số năm 2005 là 14,6 triệu người, năm 2010 khoảng 17,3 triêu người, dự báo đến năm 2020 sẽ là 20,5 triệu người. Khả năng cấp nước cho toàn lưu vực khoảng 42 tỷ m3/ năm; lượng nước cấp trung bình cho 1 người giảm từ 2.486 m3/ người/năm năm 2005 giảm xuống khoảng 1.770 m3/người/ năm vào năm 2020, so với ngưỡng của quốc tế thấp hơn 4.000 m3/người/ năm là thuộc địa phương thiếu nước. Tốc độ đô thị hóa của vùng và cả nước nằm ở mức 37% năm 2017, 38% năm 2018 và dự báo năm 2019 là 40%. Sự gia tăng dân số và đô thị hóa nhanh sẽ tăng nhu cầu nước ở cả Thành phố và các tỉnh thượng lựu sẽ gây sức ép lớn cho nguồn nước của Thành phố do giảm lưu lượng dòng chảy. Theo kết quả quan trắc về lưu lượng dòng chảy năm 2015 cho thấy lưu lượng lớn nhất so với năm 2014 có 10/15 trạm quan trắc trên LVS này giảm lưu lượng. Chất lượng nước cũng giảm theo hướng xấu hơn, cũng theo kết quả quan trắc năm 2015 cho thấy: Chỉ tiêu pH có 4/6 trạm quan trắc thay đổi trong đó có 2 tăng, 2 giảm, 2 không đồi; TSS: 2 tăng , 4 giảm; DO: 6 giảm; BOD5: 5 tăng, 1 giảm; COD: 6 tăng; Nồng độ dầu: 2 tăng, 4 giảm; Coliform: 5 tăng, 1 giảm; Độ mặn: 6 tăng. Từ số liệu trên ta thấy DO đều giảm, tức là giảm lượng oxy trong nước và làm giảm khả năng tự làm sạch của nguồn nước; độ mặn tăng, nghĩa là mức độ xâm nhập mặn tăng làm thu hẹp diện phân bố nước mặt nhạt [7]. Theo đánh giá của Ủy ban Thành phố lưu vực hệ thống sông Đồng Nai năm 2017 cho biết tình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường, đặc biệt là ô nhiễm môi trường nước, có lúc có nơi đến mức báo động trên LVS Đồng Nai mà nguyên nhân chủ yếu là do nước thải sản xuất, sinh hoạt, làng nghề, y tế, phát triển thủy điện, thủy lợi, khai thác và chế biến khoáng sản. Hoạt động kinh tế trên địa bàn của Thành phố cũng đang gây áp lực lên nguồn nước. Theo báo cáo giữa kỳ (2011) về Hỗ trợ kỹ thuật nghiên cứu biện pháp quản lý ô nhiễm phân tán trên sông Sài Gòn và các sông nhánh tại khu vực TP. Hồ Chí Minh cho thấy nguồn nước mặt đang chịu áp lực từ nước thải sinh hoạt và nước dưới đất chịu áp lực từ nước rò rỉ từ các bể tự hoại trên địa bàn THÀNH PHỐ. Theo kết quả điều tra hiện trạng khai thác nước dưới đất, xả nước thải ra nguồn nước trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh (2017) cho thấy: Số giếng khoan khai thác tại tầng chứa nước gần mặt đất vượt quá mức khả năng khai thác, số giếng khai thác hư hỏng, không sử dụng nhiều và chưa được trám lấp làm cho nguy cơ cạn kiệt tầng chứa nước, xâm nhập chất bẩn và xâm nhập mặn vào tầng chứa nước. Tổng lượng nước thải từ các cơ sở sản xuất trên địa bàn Thành phố khoảng 266.125 m3/ngày-đêm, chưa tính nước thải từ sinh hoạt, dịch vụ thải ra nguồn nước mặt và lượng nước thải chưa xử lý còn rất lớn, đe dọa đến chất lượng nguồn nước mặt của Thành phố [5]. (iii) Sức ép từ biến đổi khí hâu: Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đánh giá Thành phố. Hồ Chí Minh là 1 trong 10 Thành phố trên thế giới bị đe doạ nhiều nhất bởi biến đối khí hậu. Theo kịch bản do Bộ TN&MT ban hành năm 2016, nếu nước biển dâng 100 cm thì 17,84% diện tích của Thành phố nguy cơ bị ngập. Qua đánh giá các yếu tố của BĐKH gây ra: Vào mùa khô Thành phố đối mặt với vấn đề thiếu nước ngày càng trầm trọng hơn do lượng mưa giảm, chưa kể đến sự dâng của mực nước biển gây ra xâm nhập mặn; mùa mưa khả năng đáp ứng được nhu cầu nước của Thành phố nhưng lượng mưa tăng kéo theo nguy cơ ngập lũ nhanh, ngập úng Thành phố. [4].

Giải pháp và kết luận

Để giảm thách thức cho nguồn nước của Thành phố trước quá trình phát triển KT-XH ngày càng tăng trên toàn LVS Đồng Nai và của riêng Thành phố trong điều kiện BĐKH, xin đề xuất các giải pháp sau: (i) Hoàn chỉnh quy hoạch quản lý tổng hợp TNN cho LVS Đồng Nai và quy hoạch quản lý TNN cho Thành phố; (ii) Có kế hoạch khai thác, sử dụng, bảo vệ, phòng chống rủi ro do nguồn nước gây ra theo hướng bền vững; triển khai có hiệu quả chiến lược thích ứng với BĐKH trên địa bàn Thành phố. (iii) Nghiên cứu, đánh giá đến sử dụng nguồn nước mưa, nguồn nước lợ, nguồn nước tái sử dụng để chủ động trong bảo đảm an ninh nguồn nước cấp cho Thành phố trong thời gian tới. (iii) Triển khai nhanh và có hiệu quả các chưong trình, dự án liên quan đến quản lý và BVMT nước và TNN; (iv) Tăng cường nhận thức của công đồng về ý thức bảo vệ, sử dụng tiết kiệm nguồn nước; khuyến khích áp dụng các kỹ thuật, công nghệ trong sử dụng nước để tiết kiệm nước; (v) Hoàn thiện về thể chế, tổ chức và cán bộ trong quản lý TNN.

Thành phố Hồ Chí Minh là Thành phố có tốc độ phát triển nhanh, năng động và thu hút mạnh các nguồn lực lận cận và khu vực. Bên cạnh những thành tưu đã mang lại từ sự phát triển Thành phố. Thành phố còn gặp không ít bất cập và thách thức, trong đó có thách thức về nguồn nước như đã nêu. Hiện nay, TP. Hồ Chí Minh đã và đang nổ lực để hạn chế đến mức thấp nhất tác động của chúng. Đã và đang phối hợp cùng các tỉnh trên lưu vực để quan lý, khai thác, sử dung và phòng chống rủi ro do nguồn nước gây ra. Nhưng còn gặp nhiều khó khăn trong việc phối kết hợp giữa các địa phương trên lưu vực về quản lý nguồn nước, quy hoạch tổng hợp nguồn nước chưa được xây dựng. Các bất cập trên đang gây khó khăn trong việc giảm các áp lực lên nguồn nước của Thành phố trong thời gian tới.

NGUYỄN HỒ VIỆT ANH, NGUYỄN VĂN NGÀ