
Ảnh minh họa
Những nghiên cứu về sụt lún đất ở ĐBSCL
Kết quả nghiên cứu của Dự án “Rise and Fall” vừa vừa công bố kết quả tốc độ sụt lún trung bình ở ĐBSCL ở mức 1 – 2 cm ở vùng nông thôn và tới 2,5 cm ở khu vực thành thị và KCN. Kết quả phân tích số liệu từ nhiệm vụ: “Đo kiểm tra các mốc cao độ hạng I, II, III Nhà nước khu vực TP. HCM và một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long” (giai đoạn 2005 -2014, 2005 -2017) đã chỉ ra rằng khu vực ĐBSCL và TP. HCM đang xảy ra sụt lún ở nhiều mức độ và quá trình lún ngày càng gia tăng.
Nhìn chung, khu vực TP. HCM đang bị lún nhiều nhất với độ lún bình quân trong giai đoạn từ 5 - 10 cm, tỉnh An Giang và phía đông tỉnh Kiên giang bị lún ít; phía Nam tỉnh Kiên Giang, TP. Cần Thơ và các tỉnh phía đông Sông Hậu (Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, Đồng Tháp) độ lún khoảng 1 – 5 cm; khu vực các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Hậu Giang, Sóc Trăng có độ lún 5-10 cm. Trong khu vực tồn tại các phễu lún lớn, một phễu lún ở TP. HCM với tâm lún khoảng tại trung tâm thành phố với độ lún tại tâm đến 81,4 cm so với năm 2005. Phễu lún còn lại nằm ở khu vực các tỉnh cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau với Phễu lún nằm ở khu vực giữa tỉnh Cần Thơ và Hậu Giang, độ lún tại tâm 51,7 cm so với năm 2005. Phễu lún khác nằm ở khu vực trung tâm 2 tỉnh Cà Mau và phía Nam tỉnh Bạc Liêu với độ lún tại tâm 62,6 cm so với năm 2005.
Tổ hợp của những nguyên nhân gây ra sụt lún
Như vậy, hiện tượng sụt lún đang diễn ra ở ĐBSCL là do sự kết hợp của của các nguyên nhân tự nhiên và do con người gây ra và có thể được chia thành ba nhóm như sau:
Nguyên nhân tự nhiên
Sự cố kết chậm của lớp đất sét yếu bão hòa nước: Quá trình này diễn ra tự nhiên với tốc độ chậm, lâu dài. Theo ước tính, tốc độ sụt lún do nhóm các nguyên nhân này có thể đạt vài mm đến khoảng cm/năm.
Xâm nhập mặn làm suy yếu liên kết hóa học giữa các hạt đất, làm cho các lớp đất dễ bị nén hơn.
Kiến tạo địa chất: Theo kết quả nghiên cứu gần đây, tốc độ hạ trung bình là 2,7 mm/năm, tốc độ hạ lớn nhất là 19,9 mm/năm (khu vực Cần Giờ), và tốc độ nâng lớn nhất đạt 20,6 mm/năm (khu vực Hòn Đất).
Nước biển dâng tương đối: Nước biển dâng và đồng thời mặt đất hạ xuống sẽ làm tăng độ lún so với mực nước biển hiện tại. Theo kịch bàn BĐKH NBD hiện nay thì tốc độ sụt lún có thể cao hơn tốc độ NBD.
Do tác động của con người
Suy giảm mực nước dưới đất (MNDĐ): Các tầng chứa nước có áp, bị bao phủ bởi các lớp đất sét mềm ít cố kết; hoặc địa tầng có chứa các lớp đất hạt mịn nằm xem kẹp giữa các lớp hạt thô; khai thác NDĐ liên tục dẫn đến MNDĐ bị suy giảm liên tục. Trong một tầng chứa nước, áp lực nước lỗ rỗng tương đương với áp lực cột nước. Khi nước được rút ra khỏi tầng chứa nước và sau đó áp lực cột nước giảm, ứng suất hiệu quả trên tầng chứa nước tăng lên mặc dù tổng ứng suất không đổi. Chính sự gia tăng ứng suất hiệu quả là nguyên nhân gây ra sự cố kết của các lớp đất đá dẫn đến sự sụt lún bề mặt
Phù sa suy giảm: Trước đây, phù sa trong nước lũ chảy tràn và bồi lắng ở nội đồng trong vùng Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên. Sự bồi lắng này bù đắp lại sự lún và cố kết của nền đất phù sa, cho nên ĐBSCL vẫn duy trì được cao độ. Giờ đây, những con đê bao sông, kênh rạch đã ngăn chặn phù sa từ sông vào bồi đắp cho đồng bằng, hơn nữa lượng phù sa lại bị suy giảm, do đó, vùng nội đồng không còn được bồi đắp như trước đây, mặt đất đang trong quá trình lún tự nhiên sẽ dẫn đến mất dần cao độ.
Đô thị hóa, phát triển dân cư và cơ sở hạ tầng: Càng làm tăng tải trọng và diện tích chất tải, cho nên ngày càng đẩy nhanh quá trình sụt lún đất. Khi diện tích xây dựng ngày càng lớn thì lún diện rộng sẽ có khả năng xảy ra.
Do tự nhiên và con người
Sự tự cấu kết của các lớp trầm tích trẻ: Vào mùa mưa lũ, mực nước trong hệ thống sông dâng cao gây ngập lụt vùng đồng bằng. Lũ lụt khi rút đi thường để lại một lớp trầm tích mỏng. Sau mỗi đợt lũ lụt, một lớp trầm tích mới được bồi thêm vào. Khối lượng của các lớp bề mặt ép các lớp dưới lại với nhau. Các lớp bên dưới cấu kết lại và các lớp bên trên nén xuống. Sự thiếu hụt phù sa dẫn đến hiện tượng sụt lún bề mặt ở các đồng bằng trồng lúa và nông thôn, nơi không nhất thiết phải có hoạt động khai thác và sử dụng NDĐ.
Kết luận và một số đề xuất
Để sụt lún tại ĐBSCL không tăng theo thời gian, cần có các gói giải pháp đồng bộ, sâu rộng về tăng cường thể chế, đẩy mạnh KHCN, hợp tác quốc tế và thông tin tuyên truyền. Các nguyên nhân sụt lún cần được sự nghiên cứu đầy đủ và tích hợp một cách khoa học, phi chính trị nhằm định lượng được tác động chính của các ảnh hưởng này.
Trong số các nguyên nhân gây sụ lún đất, không phải nguyên nhân nào cũng có giải pháp tương ứng. Sẽ không có giải pháp ứng với nguyên nhân xây dựng cơ sở hạ tầng do nhu cầu phát triển kinh tế xã hội là liên tục. Nguyên nhân nén lún do tự nhiên hoặc chuyển động kiến tạo cũng sẽ không có giải pháp tương ứng. Hiện tại, sản xuất nông nghiệp vẫn đang là chủ lực của vùng ĐBSCL, trước tác động của BĐKH gây ra hạn hán, xâm nhập mặn, việc khai thác, sử dụng NDĐ phục vụ cho sinh hoạt, sản xuất là khó tránh khỏi nên cần khai thác tối ưu.
Một số giải pháp chính dưới đây được đề xuất, bao gồm: Nghiên cứu giải pháp khoa học tối ưu hóa khai thác NDĐ kết hợp sử dụng nước mặt và bổ cập nước ngầm; nghiên cứu tạo nguồn nước ngọt thay thế, bảo tồn và khôi phục vùng hấp thu lũ ở Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên; tăng cường thể chế và thông tin tuyên truyền nhằm hạn chế việc khai thác nước ngầm tự phát của hộ gia đình. Giải pháp tiết kiệm nước sạch, xử lý nước mặt; xây dựng các mô hình sinh kế nông nghiệp dựa vào lũ để hấp thu nước lũ và giảm sụt lún, bảo đảm nguồn nước ngầm, bồi đắp phù sa; rà soát, điều chỉnh lại quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của vùng và của từng địa phương; hạn chế phát triển những khu vực hiện đang có xu hướng sụt lún do tân kiến tạo và các vùng có lớp đất sét yếu dày; đầu tư xây dựng xây dựng cơ sở dữ liệu, các trạm quan trắc diễn biến lún bề mặt đất và các tầng chứa nước chủ yếu vùng ĐBSCL; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền để chính quyền các cấp và cộng động địa phương nhận biết về vấn đề sụt lún khu vực và cần có hành vi ứng xử thích hợp; xây dựng một chính sách đối ngoại sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công.
Tài liệu tham khảo
1. Erban E Laura, Steven M Gorelick and Howard A Zebker (2014). Groundwater exhaction, land subsidence, and sea-level rise in the Mekong Delta, Vietnam. Environ. Res. Lett. 9 (2014) 084010 (6pp), doi: 10.1088/1748-9326/9/8/084010.
2. Sớm khoanh định vùng có nguy cơ xảy ra sụt lún. Bộ TN&MT
3. Sụt lún ở Đồng bằng SCL dưới góc nhìn chuyên gia.
4. Sụt lún đất Đồng bằng sông Cửu Long…Viện TNN- Bộ TN&MT
5. Karlsrud Kjell and Lloyd Tunbridge, Nguyen Quoc Khanh and Nguyen Quoc Dinh (2019). Preliminary results of land subsidence monitoring in the Ca Mau province. VACI2019, HIW4-5: Implementation for IWRM for Asia region.
6. Minderhoud P.S.J., L.Coumou, L.E.Erban, H.Middelkoop, E.Stouthamer, E.A.Addink (2018). The relation between land use and subsidence in the Vietnamese Mekong delta. Science of The Total Envữonment Volume 634, 1 September 2018, Pages 715-726.
ĐÀO ĐÌNH ĐỨC
Khoa Quản lý Đất đai
Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội